Như
một nét đẹp văn hóa, nhân bản, đặc thù của thế giới thơ văn Phương Đông, nói
chung, và Việt Nam, nói riêng, thông thường, vào những ngày đầu xuân, giới thi
văn hữu, các thư sinh, các sĩ tử... đều chọn cho mình giờ tốt nhất, một ngày tốt
nhất vào năm mới, để khai bút đầu xuân. Thời điểm khai bút này luôn luôn được
tiến hành trong một bầu không khí thiêng liêng, tĩnh lặng, đầy trang nghiêm, kính
cẩn: Họ muốn mượn ngòi bút thần làm những bài thơ, những câu đối thật tuyệt vời...
để tô điểm ngày xuân thêm ý vị, thêm nồng nàn, với ước mơ nghìn đời không thay
đổi: mong Xuân về, Tết đến sẽ đem lại cho họ, cho gia đình, cho đất nước mọi điều
may mắn, mọi điều tốt đẹp như ý, mọi điều thuận lợi, an khang:
“Xuân về nhỉ,
cá rồng biến hóa,
Tết
đến ư, đào mận thơm hương.”
Ngay
sau phút giao thừa hay sáng sớm mùng một, mùng hai, mùng ba Tết, họ ăn mặc chỉnh
tề, khăn đóng áo dài, trịnh trọng đốt một lò trầm, rồi khoan thai, đĩnh đạc ngồi
xuống bên án thư, cạnh bát thủy tiên dịu dàng tỏa hương, dưới cành đào tươi thắm
hay bên cội mai vàng lộng lẫy; với chén trà xuân bốc khói hoặc bên ly rượu cúc
mơ màng, các thi văn hữu... nhè nhẹ đưa tay phóng bút ghi tả những vần điệu
tinh khôi gọi là khai bút đầu xuân:
“Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng
bay...”
(Ông đồ - Vũ Đình Liên )
Trên
những vuông lụa nõn, trên những tờ hoa tiên trang nhã hay trên những xấp giấy hồng
điều chói lọi, rực rỡ, những bài thơ xuân, những câu đối Tết bằng chữ hán, chữ
nôm hay chữ quốc ngữ... lần lượt được viết ra, được ghi lại thật trang trọng, thật
chan chứa tâm tình... như câu đối chữ hán mà ta thường thấy sau đây:
“Thiên
tăng tuế nguyệt, nhân tăng thọ
Xuân mãn càn khôn, phúc mãn đường”
Nguyễn
Thủy Nam tạm dịch như sau:
Xuân
đầy vũ trụ, phước đầy nhà.”
Tương
truyền câu đối Tết này là của một nhà nho thế kỷ 19 (Nguyễn Khuyến chăng?) làm
cho một chủ trại hòm giàu có. Vì ghép hai chữ cuối của câu đối, ta có từ “thọ
đường” có nghĩa là cỗ áo quan.
Hàn
sĩ Nguyễn Công Trứ đã từng khai bút bằng một câu đối rành rành khí phách ngang
tàng kẻ sĩ, tuy đang trầm luân trong cảnh sống đen tối, lầm than thời vị ngộ,
nhưng tâm hồn ông luôn bùng nổ, cháy bỏng niềm hy vọng, tin tưởng mãnh liệt vào
tương lai:
“Tối ba mươi
nợ réo tít mù, co cẳng tống thằng bần ra cửa.
Sáng
mồng một rượu say lúy tuý, dang tay bồng ông phúc vào nhà.”
Ở
một chỗ khác, đa số dân miền Bắc thường dán trước nhà họ những câu đối Tết giản
dị, với những hình ảnh gần gụi, những thức quà xuân đặc biệt, quen thuộc nơi nơi
thành thị, làng quê ở Việt Nam... mỗi độ Tết đến, xuân về:
“Thịt mỡ, dưa
hành, câu đối đỏ.
Nêu cao,
tràng pháo, bánh chưng xanh.”
Qua
một lần khai bút đầu xuân của nhà thơ Non Côi - Sông Vị, khi đọc, ta thấy được
cái bản chất phong lưu tài tử của người nghệ sĩ, cáí khí chất giang hồ khẳng khái
của một nhà nho... vẫn không hề mai một, mặc dầu, trong đời sống thường ngày, Tú
Xương luôn khét tiếng ăn chơi phá phách, triền miên ở chốn phùng trường tác hí,
miệt mài truy hoan rượu chè, cờ bạc, hát xướng... quanh năm. Câu đối khai bút hiếm
hoi đó được tìm thấy trong bài “Tết dán câu đối” như sau:
“Cực nhân
gian chi phẩm giá, phong nguyệt tình hoài.
Tối thế thượng chi phong lưu, giang hồ khí cốt.”
Tạm
dịch:
“Cái phẩm giá
tột cùng cõi người là ở tấm tình với trăng gió (tình yêu thiên nhiên).
Sự phong lưu bậc nhất trên cõi đời là ở cốt cách giang hồ”.
Đôi
lần khai bút đầu xuân còn khiến người chấp bút có dịp say sưa, mơ màng giữa cái
phong vị ấm áp, mông mênh, phơi phới của ba ngày Tết, tâm hồn như được nâng
cao, được thể nhập với men xuân nồng nàn, ngây ngất, thênh thang giữa một vùng trời
đất thắm tươi:
“Năm mới tháng
giêng, mùng một Tết,
Còn nguyên vẹn
cả một mùa Xuân”.
(Nhạc Xuân - Nguyễn Bính)
Trong
một bài thơ xuân khai bút bằng chữ hán, nhà thơ Tam Nguyên Yên Đổ đã dùng những
lời nhắn nhủ tha thiết của một người nghiêm phụ, khi nhìn thấy đàn con trẻ mãi
vô tư, vô cảm, miệt mài truy hoan với rượu chè, đàn ca xướng hát... trong một
thời xuân ly loạn, người người lơ láo, ngơ ngẩn, khốn đốn, bi thương trước thảm
cảnh nước mất nhà tan:
Xuân nhật thị gia nhi (đệ nhị)
“Đồi hồ mao
phát tiệm tham tham,
Bất
giác niên đăng ngũ thập tam.
Đương
thế thi thư hà sở dụng,
Lão
lai quan đới thượng đa tàm.
Loạn ly xuân
sắc chân vô lại,Ưu khổ nhân tình tổng bất kham.
Đối thử quang âm hà dĩ uý,
Chư nhi do tự tửu ca hàm?
Chính
Nguyễn Khuyến dịch ra thơ nôm như sau:
Ngày xuân răn con cháu (Bài 2)
“Tuổi thêm
thêm được tóc râu phờ,
Nay đã năm mươi có lẻ ba.
Sách vở ích gì cho buổi ấy,
Áo
xiêm nghĩ lại thẹn thân già.
Xuân về ngày loạn càng lơ láo,
Người gặp khi cùng cũng ngất ngơ.
Lẩn thẩn lấy chi đền tấc bóng,
Sao con đàn hát mãi say sưa?"
Ở một nơi khác, nhà thơ đồng quê của chúng ta khai bút đầu năm bằng một nụ cười đôn hậu, giản dị, bao dung, với chén rượu tàng tàng, với chung trà đạo vị... thanh bình, như muốn hòa nhịp lòng mình với bà con, xóm làng đang tưng bừng, rộn rã, phơi phới đón xuân sang:
Ình ịch đêm
qua trống các làng,
Ai
ai mà chẳng rước xuân sang.
Rượu
ngon nhấp giọng đưa vài chén,
Bút
mới xô tay thử một hàng...
(Khai Bút - Nguyễn Khuyến)
Còn
với nhà thơ Núi Tản - Sông Đà, ngày đầu năm đem lại cho ông, cho thế nhân niềm
vui thiết tha bất tận, với những cơn say sưa chếnh choáng... bên hoa lá tươi thắm
xuân đầy, qua những vần thơ duyên dáng, phảng phất đôi nét suy tư về thời gian,
về năm tháng, về tuổi xuân xanh, mang vẻ lãng mạn phảng phất mùi vị phong nguyệt
tình hoài:
“Tin xuân đến
ngọn cây đào
Bảo cho hoa biết ra chào Chúa Xuân.
Mỗi năm xuân đến một lần,
Thiều quang chin chục xoay vòng chẳng sai.
Ngày xuân còn mãi không thôi,
Tuổi
xuân ai để xanh rồi lại xanh...”
(Vui Xuân - Tản Đà)
Và:
“Trời xanh
trời cũng khi già,
Xuân
xanh, xanh mãi đâu mà hỡi ai!
Gặp xuân ta hãy làm vui,
Kẻo nay xuân đến,
kẻo mai xuân về.
Vui xuân rượu uống, thơ đề...”
(Vui Xuân - Tản Đà)
Nhưng
rồi trong một số bài Khai Bút, tâm trạng ưu thời mẫn thế với nợ nhà, nợ nước...
mối ưu tư về thời cuộc, về hoàn cảnh lịch sử đên tối vẫn canh cánh, tha thiết
trong tâm tưởng nhà thơ, kết thành những chuỗi suy tư, khắc khoải, dằng dặc khó
thể nguôi khuây:
“Năm
nay tuổi đã ba mươi hai
Ta nghĩ mà ta chẳng giống ai.
Khắp bốn phương trời không thước đất
Địa
cầu những muốn ghé bên vai!”
(Khai Bút 1 - Năm Canh Thân 1920 - Tản Đà)
Và:
“Năm nay tuổi
đã ba mươi ba
Ta
nghĩ mà ai chẳng giống ta.
Lo
nước, lo nhà, lo thế giới,
Còn
thêm lo nợ nghĩ chưa ra!”
(Khai Bút 2 - Năm Tân Dậu 1921 - Tản Đà)
Và,
cũng trong những ngày đầu xuân ấy, mới đây thôi, vào khoảng mươi năm trở lại, kể
từ khi nếm trải những cái Tết lạnh lẽo, nhạt nhòe, lưu lạc tha phương, nhà thơ
Cao Tiêu, đã hơn một lần khai bút với những suy tư khắc khoải, những nỗi niềm tâm
sự, cháy bỏng tình hoài hương, và, đôi khi, nặng lòng thương nhớ về đôi người bạn
cũ; đồng thời, xót xa phận mình, phận người... đang trôi nổi, luân lạc đón xuân
sang nơi góc biển chân trời:
Nguyên tác là một bài thơ chữ hán:
Xuân Bút
“Ly quốc tâm
băng tuyết,
Mỗi
xuân hựu kiến mai.
Tư quân phong hải giác,
Cảm
ngã vũ thiên nhai.
Lăng vân hồng dục khứ,
Kỳ Ký khởi qui lai.
Thừa chu giang dạ nguyệt,
Hoa tiên xuân bút khai.”
Chính
tác giả đã dịch ra bài thơ như sau:
Bút Xuân
“Xa quê lòng
một niềm băng tuyết,
Mỗi
thấy xuân về lại nở mai.
Nhớ
bạn phong sương ngoài góc biển,
Thương
ta mưa nắng tận chân trời.
Chim hồng muốn vượt mây tầng rộng
Ngựa
Ký về bon vó dặm dài.
Trăng thức, sông khuya, thuyền tách
bến,
Tờ hoa tiếng mở bút xuân khai.”
Để
có một cái nhìn tổng thể về những sinh hoạt văn học đặc thù đầu xuân của giới văn
thi hữu trong một giai đoạn lịch sử nhất định, thời quá khứ, ta nhận thấy rằng: Trong những ngày đầu năm mới, trong những thời
khắc thiêng liêng nhất, tươi đẹp nhất của không, thời gian suốt một năm dài...
giới thi văn hữu, giới nghệ sĩ, thư sinh... thường khai bút đầu xuân bằng những
bài thơ, bằng những câu đối Tết, tuy mỗi người có hoàn cảnh, số phận, tâm trạng,
thời đại... khác nhau, nhưng xét chung, họ đều phơi trải được ít nhiều tâm sự,
trang trải được ít nhiều tâm tình tha thiết với chính mình, với thiên nhiên, cây
cỏ, hoa lá, đất nước, con người trong buổi sơ xuân... trước những biến thiên không
ngừng của vũ trụ, của không, thời gian, của lịch sử và của nhân tình thế thái...
Viết
xong Tết 2012 - Nhuận bút cuối năm Giáp Ngọ, 12 - 02 - 2015.
Nguyễn Thủy Nam, South Australia.
Thầy dẫn học trò du Xuân qua văn chương thật ngoạn mục và thú vị
ReplyDeleteTrò Kh.