Sau buổi điểm tâm sáng nay, chúng tôi mang hành lý lên xe để đi đến địa điểm mới. Chỉ có năm người mà hành lý chất đầy phía sau và lan vào những băng ghế ngồi phía trước mới đủ. Cũng may chúng tôi có 5 người chứ nếu hơn thì không biết phải làm sao với mớ hành lý này.
Theo chương trình trong ba ngày và hai đêm sắp tới, chúng tôi sẽ đến đảo
Mykines (điểm #12 trên bản đồ). Đây là một hòn đảo nhỏ ở cực Tây của
Faroe Islands và được xem là một trong những thiên đường của hải điểu.
Hòn đảo này có khoảng 40 căn nhà, nhưng chỉ 6 căn là có người ở quanh
năm. Du khách đến nơi này thường để xem phong cảnh cùng hai loại chim
đặc biệt trên đảo là puffin và gannet mà ở cao điểm những loại hải điểu
này có thể lên đến cả hàng trăm ngàn con. Và cũng vì loại chim puffin đó
mà tôi chọn Faroe Islands cho chuyến đi lần này.
Muốn đến đảo Mykines, người ta chỉ có thể đi bằng thuyền hay trực thăng.
Đây là loại thuyền nhỏ khởi hành từ bến Sovágur của đảo Vágar (điểm số
#11) chở người và hành lý chứ không mang được xe cho nên những ngày sắp
tới trên đảo chúng tôi sẽ phải đi bộ dài dài. Mỗi ngày chỉ có hai chuyến
đến đảo nên hành khách phải giữ chỗ trước để chắc chắn có thể đi qua
đảo đúng như dự tính. Ngoài ra họ còn phải cẩn thận ra bến đúng giờ về
để khỏi phải bị kẹt lại.
|
H1 - Lộ trình cho chuyến đi đến đảo Mykines |
Đêm
trước chúng tôi được Olávur và Oliver cho biết thuyền đi Mykines nhỏ và
chúng tôi sẽ không có xe nên phải giới hạn đồ dùng mang theo, càng ít
càng tốt. Chỉ mang một hai bộ đồ để thay và những vật dụng vệ sinh cá
nhân thật cần. Còn những thiết bị máy hình sẽ phải mang theo hết. Tất cả
hành lý còn lại sẽ để trên xe đậu lại ở bến. Nghe đến đây, tôi quay lại
hỏi nhỏ Olávur là hành lý chất đầy trong xe như vậy ai đi qua đi lại
cũng thấy thì có lo ngại chuyện xe bị đập kính lấy đồ không. Một lần nữa
Olávur lại trấn an tôi là ở Faroe Islands không hề có chuyện này.
Trên đảo Mykines không có chỗ bán thức ăn nên chúng tôi phải mang theo
đồ điểm tâm và đồ ăn trưa. Còn buổi tối Olávur đã liên lạc được chỗ nấu
ăn cho chúng tôi. Như vậy chúng tôi sẽ phải mua đủ thức ăn và nước uống
cho hai buổi điểm tâm cùng hai buổi trưa cho tất cả 5 người. Trước khi
đến bến, mọi người ghé tiệm mua bánh mì, trái cây, thịt nguội và nước
ngọt, Tất cả những thứ này được chất vào cái va-li của ông Oliver. Tuy
đồ ăn thật giản dị nhưng tổng cộng cho 20 phần ăn thì cái va-li cũng
nặng quá xá là nặng.
|
H2 - Thuyền chuyên chở hành khách giữa bến Solavur và đảo Mykines |
Buổi sáng thuyền rời bến Sovágur lúc 10g20 và sẽ mất khoảng 45 phút mới
đến đảo Mykines. Sau đó thuyền sẽ quay về Sovágur và buổi chiều quay lại
Mykines lúc 5g để đón khách đi trong ngày trở về. Trước khi đi chúng
tôi ai cũng lo lắng là có thể bị say sóng với nguy cơ "cho chó ăn chè".
Có lẽ đã quen với những người ở nơi khác đến đảo, Olávur đã chuẩn bị
thuốc say sóng cho tất cả mọi người. Không ai từ chối, mỗi người một
viên, vừa lên thuyền khoảng 5 phút là ai nấy cũng bị say thuốc và ngủ
một mạch cho đến khi thuyền tới đảo. Chỉ có Olávur là người tỉnh táo duy
nhất đứng trên boong thuyền chụp hình.
Vừa xuống thuyền nhìn lên đỉnh đồi tôi cảm thấy ngao ngán khi nghĩ đến
cái viễn tượng phải leo lên hơn 100 bậc thang, đeo theo cái ba-lô máy
hình nặng khoảng 20 kg đằng sau lưng chưa kể chân máy hình và đồ dùng cá
nhân. Đúng là dại dột, chọn cái sở thích này làm chi cho khổ cái thân
già! Ông Oliver còn cực hơn vì có thêm cái vali đựng thức ăn cho tất cả
mọi người...
May quá, Olávur cho biết cái bức tường ở phía bên trái là hệ thống
chuyển vận đồ nặng từ bến lên trên đồi. Chỉ cần để đồ vào đó, người ta
sẽ kéo lên cho mình. Cả nhóm thở phào nhẹ nhõm, thế là có quyền an nhàn
tản bộ lên phía trên đợi hành lý của mình.
|
H3 - Bước chân lên đồi, cỏ hoang ngập lối (phỏng theo lời bài Cỏ Hoang) |
Sương mù vẫn còn bao phủ ngôi làng chính trên đảo, tôi chụp vội vài tấm hình trước khi kéo hành lý đến phòng trọ.
|
H4. Vài chiếc thuyền nằm lăn lóc trên đồi lúc chưa dùng đến |
|
H5. Ngôi làng chính lẫn trong sương mù. Những điểm trắng trên vách núi là tổ chim. |
Đi ngang một con dốc, Olávur cho biết đây là đường lên chỗ chụp chim
puffin và gannet. Nhìn con dốc cao, tôi đã than thầm trong bụng "khổ à
nha!". Theo lời Olávur, Mykines là một trong hai hòn đảo duy nhất phải
dùng máy phát điện. Hòn đảo thứ hai chỉ có một người ở.
|
H6. Đường lên đồi để đến chỗ xem chim puffin và ganet |
|
H7. Bến Mykines nhìn từ phía nhà trọ |
|
H8. Làng Mykines |
Từ bến tàu đến nhà trọ chỉ mất khoảng 10 phút nhưng đường đất lồi lõm
trơn trợt nên chúng tôi không đi nhanh được. Phòng trọ này thuộc loại
hostel tức là cho mướn chỗ ngủ theo giường. Còn bếp núc và phòng tắm mọi
người phải dùng chung. Trên đảo chỉ có như vậy nên muốn ở chỗ sang hơn
cũng không có. Căn nhà trọ của chúng tôi sơn màu vàng nổi bật trên thảm
cỏ xanh, từ xa đã nhìn thấy, khó mà lầm lẫn được. Chúng tôi mướn nguyên
tầng thứ nhất có hai phòng dành cho 7 người nên tuy là phòng trọ nhưng
chúng tôi cũng được phần nào riêng biệt. Phòng ngủ cũng như cửa chính
đều không có khóa. Ra vào chỉ cần khép cửa lại là xong.
|
H9. Nhà trọ |
Về đến nhà trọ, chúng tôi sắp xếp đồ đạc cho gọn gàng, ăn trưa xong sau
đó mọi người có một chút rảnh rỗi để nghỉ ngơi hay đi dạo loanh quanh.
Ai cũng mong cho nắng lên và sương mù tan bớt để lên đồi xem xét địa
điểm chụp hình cho ngày mai. Sương mù không những đã không tan đi mà còn
có vẻ dày hơn làm mọi người buồn 5 phút. Tuy vậy chúng tôi vẫn quyết
định đi để làm quen với đường đi nước bước. Vì không quen biết những địa
điểm sắp tới nên tôi cảm thấy mọi thứ như xa diệu vợi, không biết khi
nào mới tới chỗ muốn đến.
|
H10. Sương mù bao kín ngọn đồi trước mặt |
|
H11. Một chú cừu trong sương mù |
Leo đồi độ nửa tiếng, chúng tôi chợt nghe tiếng chim puffin. Thế là
nguyên cả đám chuyển hướng về phía đó. Wow! cả mấy chục con đang nhởn
nha đậu hay bay lên bay xuống ở những mõm đá bên cạnh vực sâu thẳm.
Sương mù dày đặc chỉ thấy được trong khoảng 2, 3 thước. Mọi người bấm
máy lia lịa nhưng hình nào hình nấy mờ mờ ảo ảo.
|
H12 |
|
H13 |
Chụp một chút, chúng tôi bỏ cuộc và quyết định đi tiếp. Ông Bruce quay
về lại phòng trọ, chỉ còn tôi lót tót đi theo ông Oliver and Olávur. Sau
khi lên đến đỉnh đồi, chúng tôi sẽ đi dọc theo con đường nhỏ cheo leo
bọc quanh sườn núi, sau đó sẽ xuống một quãng dốc cao với đường đất trơn
trượt rồi băng qua cây cầu nhỏ để đi qua bên kia đảo. Cũng may nhờ cô
bạn Nguyệt Anh huấn luyện dài dài trong những cuộc đi hiking hàng tháng
mấy năm vừa qua nên tôi không thấy ngại ngùng khi phải đi ở những triền
núi như thế này. Vừa hết đoạn đường có hàng rào trước khi xuống đường
dốc trơn trượt, chúng tôi thấy khá đủ nên quay trở lại.
|
H14 |
|
H15. Đường vừa dốc vừa khúc khuỷu quanh co |
Bình thường thì tôi cũng khá nhanh nhẹn nhưng đến lúc đi hiking bao giờ
tôi cũng là người chậm chạp đi sau chót. Đường bằng thì nhẩn nha chụp
hình, còn đường dốc thì đi vài chục bước là phải ngừng lấy hơi. Mỗi lần
đi hiking với cô bạn Nguyệt Anh là luôn luôn Nguyệt Anh đi trước rồi lâu
lâu phải đi ngược lại canh chừng xem tôi có bị lạc lối không. Trong
chuyến đi này thì Olávur giữ vai trò giám sát viên, lâu lâu dừng bước
quay lại xem tôi có đang lửng thửng bước ở phía sau không.
|
H16 |
Cũng may lúc leo dốc trở lên đỉnh đồi mọi người vẫn còn thấy đường đi.
Đi thêm một chút xíu nữa thì chỉ thấy được khoảng 5 bước trước mặt. Tôi
phải ráng đi nhanh chứ không sẽ mất dấu của ông Oliver và Olávur. Ai mà
yếu bóng vía bị nhát ma ở những chỗ như thế này chắc là đứng tim mất!
|
H17. Đã không thấy rõ đường đi còn bị leo dốc nữa chứ!
|
|
H18. Chỉ cách có vài bước mà những người đi phía trước trở thành những bóng mờ |
Tối hôm đó sau khi ăn cơm tối chúng tôi thật lo lắng vì nếu ngày mai
cũng bị sương mù như hôm nay thì hỏng chuyện, không cách nào chụp hình
được cả. Chúng tôi xem dự đoán thời tiết thì thấy sẽ có nắng và người
điều hành hostel cũng cho biết như vậy nên mọi người lên tinh thần. Sau
vài ngày ở Faroe Islands tôi biết thêm một điều là ở đây việc báo hiệu
thời tiết chỉ chính xác cho ngày hôm sau, còn xa hơn nữa thì không có gì
chắc chắn cả.
*
Hôm sau thức dậy, mọi người ai nấy cũng mặt mày tươi rói vì trời quang
mây tạnh. Chúng tôi ăn sáng thật nhanh rồi vác máy ảnh lên đường ngay.
Đường lên đồi hôm nay khác hẳn hôm trước, xanh tươi, thật mát mắt. Đường
khúc khủyu nhưng không ai thấy ngại ngùng, chỉ mong đến nơi có puffin
thật nhanh để chụp hình.
|
H18. Trên đỉnh đồi là đài tưởng niệm những người đã mất vì tai nạn trên đảo này |
|
H19 |
|
H20. Hết đoạn đồi này rồi lại đến đoạn đồi khác |
Chúng tôi trở lại chỗ hôm qua, hàng trăm con chim puffin đậu trên triền
núi, bay lên bay xuống thật vui mắt. Lần này thì bấm máy cho bằng thích.
Chụp mỏi cả tay cũng không thấy chán.
|
H21. Chim puffin đậu đầy trên những mõm đá |
Loại chim puffin trên đảo Mykines thuộc giống puffin miền Đại Tây Dương.
Giống chim này thường tụ lại ở những hòn đảo và làm tổ trong hang trên
các sườn núi. Những năm gần đây đảo Mykines có hàng chục ngàn con chim
puffin đến đây làm tổ. Tuy nhiều như vậy nhưng Olávur cho biết số chim
puffin trên đảo đã giảm đi rất nhiều. Trước đây có những năm chim puffin
trên đảo lên đến hàng trăm ngàn con, nhiều đến nỗi chính phủ phải cho
dân bắt puffin để ăn thịt bớt. Bây giờ thì chuyện này đã bị cấm, không
ai được bắt puffin nữa.
|
H22. Hai mình một cõi |
|
H23. Một chú chim puffin đang sửa soạn đáp xuống |
|
H24. Làm sao mà đáp hụt được! |
Trước khi lên đường đến Faroe Islands, tôi tình cờ thấy hình chú chim
puffin miệng đầy cá nhỏ, Nhìn thích quá, chỉ mong trong chuyến đi này
mình sẽ được thấy tận mắt và đúng là trời không phụ lòng người. Không
những được thấy tận mắt và còn chụp được một tấm hình của chú chim này
nữa chứ. Vui quá là vui!
|
H25. Miệng đầy cá! |
Nếu không có những chú chim gannet đợi ở chặng tới có lẽ tôi còn ở lại
đây lâu hơn để ngắm nghía và chụp thêm hình mấy chú puffin. Sau khi đi
bọc quanh triền núi, chúng tôi đến ngã ba đường, tôi cùng một số người
theo ngã rẽ xuống đoạn dốc bên phải. Làm sao mà không mê được, mõm đá
bên kia đầy puffin.
|
H26 |
Đoạn đường kế tiếp thật là dốc và trơn trợt để đến cây cầu bắc ngang khe núi giữa hai nhánh của đảo Mykines.
|
H27 |
Cây cầu thật giản dị nhưng đến đây ai cũng phải ngừng lại để chụp hình,
người đi hiking chỉ chụp vài tấm còn những người đến đây cốt để chụp
hình thì dừng lại khá lâu.
|
H28. Cây cầu nối hai mảnh của đảo Mykines |
Có đứng trên cầu mới thấy tại sao không thể không dừng lại đây để chụp hình.
|
H29. Eo biển xinh xắn ở trước mặt |
Điểm đặc biệt ở nơi này không phải chỉ là cảnh núi và biển phía trước mà
là hàng trăm hàng ngàn con chim fumar đang làm tổ trên vách. Mỗi tổ
chim đều có chim mẹ hoặc đang ấp trứng hoặc đang chăm lo cho chim con.
Tôi chỉ chụp hình không bao lâu nên mỗi khi thấy những cảnh với nhiều
chi tiết như thế này thường là hoa mắt không biết bắt đầu từ nơi nào
hoặc nên chụp những gì. Chỉ biết bấm qua loa vài tấm rồi lại tiếp tục
lên đường.
|
H30. Chim làm tổ đầy trên vách núi |
|
H31. Chim mẹ và chim con |
Con đường trước mặt thật khó cho tôi vì chỉ có lên dốc và lên dốc để đi
đến ngọn hải đăng Mykines Holmur, được xây vào năm 1909. Ngoài việc
hướng dẫn cho thuyền bè đi lại, nơi này còn được dùng làm trạm đo nhiệt
độ và vận tốc gió.
|
H32. Đường lên hải đăng |
Phía dưới ngọn hải đăng không xa là căn nhà nhỏ dành cho gia đình người
giữ hải đăng. Ngoài việc giữ hải đăng, thỉnh thoảng họ còn giúp Đại Học
Copenhagen để quan sát Northern Lights, một loại ánh sáng đặc biệt màu
xanh lá cây, chỉ có thể thấy vào mùa lạnh ở những nước gần phía Bắc cực.
|
H33. Toàn cảnh hải đăng Holmur nhìn từ xa với căn nhà người giữ hải đăng nằm bên trái |
|
H34. Hải đăng Holmur |
Lên đến ngọn hải đăng trên đỉnh đồi xong, chúng tôi lại xuống đồi theo
con đường bên cạnh căn nhà của người giữ hải đăng để đến sát bờ biển
chụp hình gannet. Đứng giữa lưng đồi nhìn về phía xa nơi thuyền đưa
người đến đảo Mykines, ngôi nhà nhỏ màu đỏ nổi bật trên sườn đồi, phía
xa đằng sau là hòn đảo mờ khuất trong mây, một cảnh mà tôi trước đây chỉ
thấy trên bưu thiếp, không ngờ hôm nay lại ở ngay trước mắt mình.
|
H35. Nhà người giữ hải đăng |
|
H36. Hòn đảo bên cạnh Mykines |
Gannet là một loại chim trắng rất lớn, màu sắc thanh tao, nếu vươn hết
cánh sẽ chiếm khoảng 2 mét. Chim nhiều và đẹp nhưng ở nơi xa. Tôi không
có ống kính dài nên hình chụp không được đẹp và sắc nét như ý muốn.
|
H37. Một trong những nơi gannet đậu trên đảo Mykines |
|
H38 |
|
H39 |
Lúc xem lại hình ảnh trên điện thoại, tôi tìm được một đoạn video quay cảnh đồi nơi chim gannet đậu.
Ở đây đến khoảng 5g, sương mù bắt đầu bay đến. Chúng tôi chuẩn bị quay
về vì ngại sương mù xuống dày đặc sẽ không thấy đường đi nhất là bây giờ
phải đi ngược lên đồi về phía hải đăng. May sao, trước khi lên dốc,
chúng tôi thấy một vài người đi dọc theo bờ biển, không phải leo dốc.
Tôi và ông Oliver đi theo mấy người này, còn Olávur đã đi trước. Chúng
tôi về lại chỗ ở trước 7g chiều vừa kịp cho buổi ăn tối.
Buổi tối hôm đó chúng tôi trở lại quán cà phê đối diện để ăn cơm tối. Cửa tiệm và
trang trí trong nhà đều rất giản dị. Tôi để ý bảng hiệu của các tiệm
không to lớn như ở Á Châu, vừa đủ để khách hàng biết là nơi nào. Món ăn
tối hôm nay là thịt trừu cùng với các loại rau quả như khoai tây, cà rốt
và đậu cô-ve (green beans, harricot vert). Món ăn tuy giản dị nhưng món
nước sốt đi cùng đã khiến hai bữa ăn tối trên đảo thành những bữa ăn
ngon nhất trong thời gian tôi ở Faroe Islands.
|
H40. Mặt tiền của quán cà phê nơi chúng tôi ăn tối |
Sau bữa cơm tối, mọi người xem hình thì được biết trên đường về Olávur
tìm được một chỗ lúc vừa đi qua cầu có thể chụp chim gannet thật gần.
Olávur tìm cách gọi tôi và ông Oliver nhưng chúng tôi không nghe. Tiếc
quá! Mọi người bàn với nhau là sáng hôm sau cố gắng dậy sớm đến nơi chụp
khoảng 1 tiếng và trở lại nhà trọ trước 10 giờ sáng để kịp lấy thuyền
rời đảo Mykines. Nhưng hôm sau sương mù dày đặc, dự định tối hôm trước
đành phải hủy bỏ. Thay vì đi chụp gannet, tôi đi loanh quanh trong làng
chụp hình và tình cờ gặp được chú chim lạ này, sau đó mới biết là loại
chim black guillemot.
|
H41. Chim black guillemot |
Tấm hình chú puffin dưới đây có lẽ là một trong những tấm hình ưng ý nhất
của tôi trong chuyến đi này và được mang tên "Chơi vơi giữa trời". Có
lúc nhìn tấm hình tôi lại chạnh lòng nghĩ đến những giây phút chơi vơi
giữa thăng trầm của cuộc đời để rồi cuối cùng cũng đến được bến đỗ, nơi
những nụ cười thân yêu và những vòng tay ấm áp của gia đình đang chờ đợi
mình.
|
H42. Chơi vơi giữa trời |
Mặc dù trong ba ngày ở đây, chỉ có một ngày trời nắng ấm áp, nhưng
những gì được thấy tận mắt sẽ làm tôi nhớ mãi và không ngần ngại lập lại
câu lần trước. Vẫn đáng cái công đi xa!
Trần Dung
August 24, 2018
References:
(1) http://visitvagar.fo/welcome-to-vagar/about/about-vagar-and-mykines/mykines/the-lighthouse-on-mykinesholm/
Một hồi ký thật tuyệt vời cùng những hình ảnh quý giá thật hiếm có. Chúc mừng nhiếp ảnh gia Dzung Trần!
ReplyDeleteChâu Đạt - Toronto Canada
Xem 42 hình với video quay cảnh nơi chim gannet họp đàn và đọc các phần phụ đề, tôi hoàn toàn đồng ý với Dzung Tran là "Vẫn đáng cái công đi xa". Tuy vậy, nếu tôi có được cơ hội hiếm hoi này thì tôi sẽ nán lại lâu hơn ở làng Mykines (h. 8) để leo đồi (h. 17, 20) chiêm ngưỡng trời mây (h. 18, 36), núi non (h. 15, 17) và biển cả (h. 19, 29) tại thiên đường của các loài chim biển (h. 12, 26, 30, 37, 41). Nhà khách ở làng (h. 9) có ăng-ten chảo (parabolic) tất phải có TV và Wi-Fi như vậy tôi có thể ở cả tuần lễ là ít. Nếu nhà khách hết chỗ, tôi chắc làng còn nhiều phòng trọ vì theo tác giả nơi đây chỉ có 6 gia đình cư ngụ. Chưa kể, nếu được ở nhờ nhà người trông coi hải đăng Holmur (h. 32, 33, 34) thì còn đâu hơn được nữa. Cảm ơn Dzung Tran vì nhờ cái "dại dột" và "thân gìa" cõng tới 20kg (44lbs) hành trang phó nhòm mà thầy xưa bạn cũ mới được thưởng ngoạn quang cảnh thiên nhiên và nhân tạo vừa lạ thường, sinh động và rất hài hòa ở Faroe Islands. (CÒN TIẾP). BDChi
ReplyDeleteThị xã Ipswich, tb Massachusetts. Ngày 6/9/2018.
ReplyDeleteLAN MAN BÊN LỀ.
1/. Phụ đề h. 22 "Một mình một cõi" < "Hai mình một cõi" mới chính xác và đỡ bị chỉ trích là "kỳ thị giới tính".
2/. Đoạn 2, phần Nhập Đề. > Dzung Tran viết, "...và cũng vì loại chim puffin đó mà tôi chọn Faroe Islands (F.I.) cho chuyến đi này." < Cùng sở thích du khảo, tôi có mấY câu hỏi sau:
2a. Tổ chim puffin làm bằng rơm, cỏ, v..v.. (h. 5) như chim fumar (h. 30, 31) hay bằng nước rãi (nước miếng) như chim yến ở quê nội? [< Bạc triệu ĐÔ đó >]
2b. Tổ chim hay phân chim (h. 14, 15] trên vách đá?
2c. Phân bồ câu làm hư mặt tiền và đường gờ lát đá cẩm thạch (ốp lát = marble) của đền đài, dinh thự, ... Phân chim di (migrating birds cuối Thu tránh Đông lạnh ở Canada bay xuống miền Nam nước Mỹ, sang Xuân lại quay về) làm chết hết cỏ ở nhưng nơi chim nghỉ cảnh giữa đường. Ai đậu xe hơi quanh đó thì chỉ qua một buổi là kêu trời không thấu! Mấy loại chim ở F. I. theo trong hình chỉ bài tiết trên vách đá (h. 26, 28, 38) nên những đồi cỏ bao la xanh mướt mới không bị loang lổ chăng?
2d. Giống thiên nga (swan) ở những công viên của Tp. Greenville, tb. Delaware, Mỹ, nổi tiếng chung tình > một con mất đi, con còn lại sẽ ở vậy suốt đời. Chàng/Nàng nào xán tới tỏ tình là bị mổ tơi bời không thương xót. Puffin (h. 12, 22, 25) có thủy chung như vậy không?
BDChi, THBMT 1963-74.
Hình ảnh đẹp và lời viết trích dẫn thật dễ dàng khiến người đọc như đã đến nơi này vậy. Đam mê về nhiếp ảnh cũng tốn kém lắm nhưng thích, có thể nhịn 1 tuần ăn sáng chỉ để mua một cái thẻ nhớ ...đủ chất lượng để không phí công ghi hình, cho mình, gia đình và chúng bạn xem khi chưa hoặc không bao giờ đến được.
ReplyDeleteCảm ơn Dzung đã "Lao công khổ tứ" để cho các bạn những tấm hình thật là tuyệt vời.