Tuesday, August 7, 2018

Bước chân lãng du: Faroe Islands - Phần 2

Trong hai ngày đầu tiên ở Faroe Islands, nhóm chúng tôi dừng chân ở khách sạn Runavik (điểm số #3 trên bản đồ) nằm phía Nam của đảo Esturoy. Đây là khách sạn duy nhất của hải cảng Runavik nên khi nghe nói chúng tôi đang ở khách sạn, mọi người đều biết ngay đó là khách sạn Runavik.

Từ phi trường để đến Runavik, chúng tôi lái xe qua một đường hầm ngầm dưới biển dài khoảng 5km nối liền hai đảo Vágar và Streymoy rồi sau đó phải băng qua cầu Streymin Bridge để đến đảo Esturoy. Nếu chỉ lái qua cầu mà chưa biết lai lịch của cây cầu này thì thấy nó rất tầm thường, không có gì đáng chú ý cả vì kiến trúc đã không có gì đặc sắc mà chỉ dài có 220m. Tuy vậy cầu Streymin thường được gọi đùa là "Cây cầu bắc qua Đại Tây Dương" (Bridge over the Atlantic). Là cây cầu duy nhất nối liền hai mảnh đất khác nhau trên biển ĐạiTây Dương của Faroe Islands, cầu Streymin là một trong vài cây cầu hiếm hoi trên thế giới thuộc loại này.

Faroe Islands cũng đang thực hiện một đường hầm dưới biển dài khoảng 11km nối liền những thành phố ở phía Nam của hai đảo Streymoy và Esturoy. Được biết việc thực hiện đường hầm này sẽ mất khoảng 3-4 năm và dự định hoàn thành vào năm 2019 hay 2020. So với việc xây cất hầm cầu Thủ Thiêm thì thời gian thực hiện này rất ngắn vì hầm cầu Thủy Thiêm dài cỡ 1.5km nhưng lại mất khoảng 7 năm mới xong. Sau khi xong hầm cầu mới, nhiều đoạn đường trước đây phải mất hơn 1 tiếng đế lái qua sẽ giảm xuống còn 10-15 phút.

Từ phòng tôi nhìn ra vịnh, bên trái là một dòng suối xinh xắn với nước chảy róc rách, bên phải và một cái eo nhỏ của hải cảng Runavik với khá nhiều tàu đánh cá. Tuy hải cảng không được nên thơ lắm và sáng sớm đã ra khỏi khách sạn để đến tối khuya mới về, được ngắm nhìn cảnh mây nước bao la từ cửa sổ phòng mình, lòng bỗng thấy an bình và quên đi những bận rộn trước khi đến.

H1 - Hải cảng Runavik khoảng 11g đêm
Hôm sau chúng tôi hẹn gặp nhau ăn điểm tâm ở phòng ăn của khách sạn lúc 7g sáng để chuẩn bị lên đường lúc 8g. Thức ăn sáng ở đây tuy không nhiều món bằng hôm qua nhưng những món ăn cũng tương tự như vậy. Dĩ nhiên cũng có món trứng lòng đào và đây là lần đầu tiên tôi thấy đồ đựng trứng bằng nhựa, dùng một lần rồi bỏ đi.


H2

Theo chương trình ngày hôm nay chúng tôi sẽ ghé đến  hai hòn đảo Kalsoy và Kunoy để thăm viếng một số ngôi làng như Trollanes, Húsar, Mikladalur và Kunoy theo lộ trình trong bản đồ dưới đây bắt đầu từ khách sạn Runavik (điểm số #3). Hai hòn đảo này có thể được tạm dịch là Nam Đảo và Nữ Đảo (Kalsoy - Man Island, Kunoy - Woman Island).

H3

Rời khách sạn chúng tôi lái xe đến bến Klaksvik thuộc đảo Borðoy (điểm số #5) đế lấy phà đi qua bến Syðradalur của đảo Kalsoy (điểm số #6). Nếu hụt một chuyến thì phải đợi từ 1 tiếng rưỡi đến 2 tiếng mới có chuyến kế vì vậy nên chúng tôi cố gắng đến sớm. Xe lên phà, chúng tôi xuống xe để có thế ngắm cảnh dọc đường. Vì là quần đảo nên Faroe Islands có rất nhiều hải đăng. Phần lớn là những hải đăng nhỏ dọc theo biển hay trên đỉnh núi.

H4 - Một ngọn hải đăng trên đường đến bến Syðradalur của đảo Kalsoy
Khi thuyền vừa cặp bến, chúng tôi có dịp thấy cách người ta thuyên chuyển cá hồi con từ chỗ nuôi trong nhà ra trại ngoài  biển. Theo lời Ólavur, cứ ba bốn vòng lưới  nuôi cá lại có một cái thuyền thức ăn đậu ở đó và cách vài tiếng thuyền lại tự động thả thức ăn cho cá.

H5 - Cá con được chuyên chở bằng xe ra đến bến rồi chuyển xuống thuyền đưa ra trại cá dọc theo bờ biển
Ở Faroe Islands, việc nhìn thấy một hai căn nhà chơi vơi ở giữa quãng đồng rộng mênh mông là chuyện thường. Cũng như mọi người, tôi thắc mắc về chuyện điện nước ở những nơi này như thế nào và được Ólavur cho biết tất cả đều có điện nước do thành phố dẫn tới mà không tốn thêm một chi phí phụ trội nào. Từ hôm qua cho đến hôm nay tôi không hề thấy hệ thống cột điện hay dây điện dẫn đến các làng mạc. Có lẽ hệ thống dây điện được dẫn dưới mặt đất. Điều này cũng dễ hiểu, với những cơn gió mạnh mẽ của mùa Đông ở nơi đây, dẫn điện dưới mặt đất về lâu về dài vừa an toàn lại vừa ít tốn kém trong việc bảo trì vì bão tố.

Cũng như những nước Bắc Âu, ở nơi này có rất nhiều nhà với mái cỏ tuyệt đẹp. Giá mà tôi đến đây hai tuần sau đó thì căn nhà trong hình dưới đây sẽ nổi bật trên thảm hoa vàng. Được biết có hai lý do khiến người ta trồng cỏ trên mái nhà. Lý do thứ nhất là để giảm tiếng động khi trời mưa xuống và kế đó là để giữ hơi ấm trong nhà vào mùa đông. Loại cỏ này chỉ cao như vậy nên không phải lo chuyện cắt cỏ.

H6


H7

*

Ngôi làng Trollanes (#7) là điểm dừng đầu tiên của chúng tôi trong chuyến đi hôm nay. Nằm sát ngay bờ biển, Trollanes chỉ có hơn 10 căn nhà với ba gia đình khoảng 20 người dân. Mỗi gia đình sơn nhà một màu khác nhau: đỏ, đen và trắng. Nếu nhìn từ phía biển vào, gia đình nhà màu đỏ làm chủ khu đất bên tay phải, chủ nhà màu trắng có khu đất ở giữa và chủ nhà màu đen có khu đất bên trái. Và dĩ nhiên cửa vào đất của họ cũng sơn những màu tương tự.

Ngôi làng này được biết đến với ngọn hải đăng Kallur nằm ở vị thế rất đẹp mà những người thích đi hiking hay chụp hình sẽ muốn được đến đây xem tận mắt hay chụp một tấm hình làm kỷ niệm. Muốn đi đến ngọn hải đăng này, chúng tôi phải đi vào đất của gia đình có nhà màu đỏ.

H8 - Ngôi làng Trollanes nhìn từ trên cao sau một đoạn hiking

H9 - Những ngôi nhà đen, đỏ, trắng chen lẫn

H10

H11 - Bên dòng suối nhỏ

Trước đó, Ólavur đã liên lạc với anh chủ nhà để làm hướng dẫn viên cho chúng tôi vì đường đi đến hải đăng Kallur không có đánh dấu gì cả. Bà vợ ông Bruce nghe nói phải leo dốc khoảng 2-3 cây số mới tới nơi, bà quyết định ngồi dưới xe nên chỉ có ông Oliver, Ólavur, ông Bruce và tôi khệ nệ mang máy hình đi lên đó.

Ngày hôm qua khi đến Gjogv, đường đi dễ dàng nên tôi cũng ỷ y mang giầy đi bộ thường, không phải giầy hiking. Không ngờ đường đi vừa dốc, vừa nhỏ, bên cao bên thấp và trời lại mưa cùng sương mù, giầy đế bằng trơn trợt nên tôi té lên, té xuống. Cũng may không có đá nhiều, chỉ bị dơ và ướt chứ không bị sứt mẻ gỉ cả.Ông bà Bruce và tôi cũng cùng độ tuổi và có vẻ cũng là người ít đi hiking nên leo dốc một chút là chúng tôi phải dừng lại nghỉ rồi mới tiếp tục đi tiếp được. Chẳng bù với Ólavur và anh chủ nhà chạy băng băng lên dốc.

H12 - Cậu chủ nhà của vùng đất dẫn đến ngọn hải đăng Kallur trước cổng vào vùng đất chăn  nuôi của anh

H13 - Đường đi lồi lõm

H14 - Có chỗ sát sườn núi, nhìn xuống cũng ngại ngùng đôi chân
Trên đường đi, chúng tôi gặp rất nhiều chú cừu nhởn nhơ ăn cỏ trên sướn núi. Riêng gia đình này, hàng năm họ chỉ nuôi khoảng 450 con cừu mặc dù đất rất rộng. Lý do họ phải giới hạn như vậy là vì mùa đông họ không có đủ thức ăn cho cừu hoặc có đủ chỗ trú cho chúng lúc thời tiết thật khắc nghiệt.

H15

Cuối cùng chúng tôi cũng đến được chân của ngọn hải đăng Kallur, nhưng chưa hết đâu, muốn chụp hình đẹp phải đi qua đến đỉnh đồi bên kia chụp lại.

H16 - Đỉnh đồi  bên phải đã có một vài nhiếp ảnh gia chuẩn bị máy hình để chụp ngược lại về phía hải đăng

Nhìn đoạn đường trước mặt với con dốc trơn trợt và đôi giầy đế bằng của mình, tôi thật ngại ngùng với cái viễn ảnh có thể té xuống cái dốc hai bên. Thôi thì đành chọn giải pháp an toàn, ở lại phía bên này và không tiếc chuyện bỏ lỡ cơ hội chụp được một tấm hình đẹp.

H17

Không biết từ lúc nào mình trở nên nhát gan, sợ té hết cỡ! Chỗ chênh vênh bên sườn núi, sát biển cũng không dám xuống luôn. Giá không phải mang cái máy hình nặng chịch, giá có đôi giầy chắc ăn thì thế nào cũng theo chân mọi người tới nơi tới chốn luôn.

H18

Thôi thì chụp đỡ vài tấm ở gần đó. Sương mù thì mặc kệ sương mù!

H19

H20

Sau khi chụp hình ở Trollanes, chúng tôi trực chỉ đến nhà của một người nào đó ở làng Húsar dùng cơm trưa vì ở đảo này không có tiệm ăn nào cả. Sau đoạn leo dốc vừa rồi, ai cũng đói meo, mong được ăn trưa càng sớm càng tốt. Không ngờ vì hiểu lầm về giờ giấc, nên chủ nhà lại đi vắng, không chuẩn bị thức ăn cho chúng tôi như đã định. 

Trong những trường hợp bất ngờ như thế này, tôi càng thấy việc có một người địa phương đi theo mình như thế này thật là tốt. Ólavur liên lạc ngay với một trung tâm lo việc giúp đỡ những người khách lỡ đường (hospitality service) và họ sắp xếp cho chúng tôi 5 người đến ăn trưa ở một gia đình trong làng Mikladalur, nơi mà chúng tôi dự định đến sau buổi ăn trưa. Tôi chụp vội tấm hình nhà thờ ở Húsar rồi lên xe đến làng kế bên.

H21

H22


 *

Lúc chúng tôi lái xe đến Mikladalur thì ông chủ nhà ra tận đường cái để đón chúng tôi. Trước khi vào nhà, ông còn giới thiệu cho chúng tôi một hai cảnh đặc biệt, chẳng hạn như cái nhà cũ có bánh xe quay nước và nhà thờ cạnh đó.

H23

H24

Lúc vào nhà, bà chủ nhà đã dọn sẵn với thức ăn đầy bàn với hai ba loại bánh mì, thịt nguội, paté, mứt, sữa, cà phê, nước trà, nước trái cây rồi bánh ngọt cho phần tráng miệng. Thật là một bữa ăn đầy đủ khi phải chuẩn bị trong chốc lát cho những người khách lỡ đường như chúng tôi.

Sau khi ăn xong, ông chủ nhà dẫn chúng tôi đến thăm thắng cảnh nổi tiếng ở đây. Ngoài khung cảnh hoang dã và hùng vĩ của nơi này, Mikladalur được biết đến với bức tượng selkie (sealwoman) rất đẹp đứng sát bên bờ biển.

Theo truyền thuyết, hải cẩu vốn được tin trước đây là người thường nhưng tự nguyện hy sinh thân mình cho biển cả. Mỗi năm cứ đến ngày Twelfth Night (12 ngày sau Giáng Sinh, tức là ngày mùng 6 tháng Giêng), họ được phép lên bờ, trút bỏ lớp da để thành người thường vui chơi và nhảy múa cho thỏa thích.

Một anh nông dân trẻ từ Mikladalur đã từng đến bãi biển xem những điệu múa của họ. Ở đó, anh thấy một cô gái xinh đẹp trút bỏ lớp da của cô. Bị mê hoặc bởi sắc đẹp của cô, anh dấu lớp da của cô khiến cô không trở ra biển được rồi buộc cô phải cưới anh ta. Để giữ cô lại, anh dấu làn da của cô trong ngực và mang chìa khỏa trong người cả ngày lẫn đêm. Họ sống với nhau khá lâu và có nhiều mặt con. Một ngày kia khi đi câu, anh phát giác là đã quên mang theo chìa khóa, vội vàng dùng hết sức để chèo thuyền về lại nhà. Lúc về đến nơi thì vợ anh đã thoát ra biển, để lại con cái của họ. Trước khi đi, cô đã dập tắt lửa và dấu đi những vật nhọn để các con không bị nguy hiểm.

Một ngày kia, dân trong vùng dự định đi vào sâu trong những hang động để săn hải cẩu. Đêm trước đó, anh nông dân được vợ cũ báo mộng là khi đi săn, anh ta không nên giết con hải cẩu to lớn đang nằm ở lối vào và hai con hải cẩu con nằm bên trong vì đó là chồng và con sau này của cô. Cô tả rõ sắc da của chồng và hai con để anh nông dân có thể nhận ra khi gặp họ. Thế nhưng anh ta giấu đi giấc mơ của mình. Anh nhập bọn với những người thợ săn và giết tất cả những con hải cẩu mà họ gặp dọc đường. Khi trở về, họ chia phần nhau và anh nông dân  nhận được con hải cẩu lớn cùng một phần của hai con hải cẩu con.

Buổi tối hôm đó, đang lúc nấu phần của mình, anh nông dân bỗng nghe một tiếng động thật lớn ở phòng bên cạnh. Cô vợ cũ của anh hiện ra trong dáng của một người khổng lồ hung dữ, cô ngửi mùi thức ăn trong nồi rồi khóc lóc và tung lời nguyền: "Đây là đầu của chồng ta, đây là tay của Hárek và chân cùa Fredrik. Từ nay các người sẽ phải đền tội. Ta sẽ trả thù tất cả những người đàn ông ở Mikladalur. Các người sẽ phải chết trên biển cả hay rơi từ đỉnh núi cao cho đến khi những người chết  có thể nối vòng tay bao quanh đảo Kalsoy mới thôi!"

Nói xong lời nguyền, cô biến mất sau một tiếng sấm lớn và không bao giờ hiện ra nữa. Cho đến nay, thỉnh thoảng vẩn có người bị chết đuối hay rơi từ trên cao xuống vực sâu. Có người vẫn tin vào truyền thuyết và lo lắng là số nạn nhân chưa đủ số để nối đủ vòng quanh đảo Kalsoy.

H25 - Núi và biển

H26 - Đường xuống thăm tượng Sealwoman

H27 - Sừng sững giữa trời


H28 - Với cảnh đẹp chung quanh

H29 - Cũng có một tấm hình kỷ niệm
*

Để chắc chắn không bị lỡ đò, chúng tôi lấy chuyến phà sớm để về bến Klaksvik rồi từ đó lái xe qua đảo Kunoy. Chúng tôi chụp một vài bức hình rồi về nghỉ sớm chuẩn bị cho ngày mai trả phòng đi qua đảo Mykines.

Điểm đặc biệt của Kunoy là ngôi nhà thờ tuy cũng mái đó, cũng kiểu tương tự như những nhà thờ chúng tôi đã thấy bên đảo Kalsoy nhưng ngôi nhà thờ ở đây nằm cao trên triền núi, tạo vẻ đẹp riêng biệt của nơi này.

H30

H31

H32

Những cánh hoa vàng, một loài hoa đặc trưng của Faroe Islands đã bắt đầu nở ở nhiều nơi trên những cánh đồng khi hè đến.

H33

Một ngày bấm máy hình mỏi cả tay, đi bộ mỏi cả chân, quần áo lem luốc đầy bùn nhưng có thêm một ngày thật trọn vẹn để chiêm ngưỡng vẻ đẹp mộc mạc của Faroe Islands!

Vẫn thấy đáng cái công đi xa...

Trần Dzung
August 7th, 2018


5 comments:

  1. Dzung ơi,

    Buổi sáng ở thư viện Kh. bận nhiều việc lắm, nhưng khi nhìn thấy tựa đề bài của Dzung là không nhịn thèm được!

    Trước hết phải nói là Dzung chụp hình quá đẹp! Những tấm hình núi và biển cheo leo; những ngôi nhà nhỏ bé nhưng nổi bật giữa trời mây và thảm cỏ xanh biếc; lời thuyết minh thật lôi cuốn và thật lạ lẫm đối với Kh. khi có một nơi chốn và con người sinh sống bình an như thế.
    Khi Dzung đi Mông Cổ, Dzung tiếp xúc với người Mông Cổ nhiều hơn trong cách sinh hoạt của họ, nhưng đến Denmark lần này thì Dzung được chiêm ngưỡng phong cảnh thiên nhiên nhiều hơn. Thú vị lắm!
    Đúng là chả bõ công xách gói "dế mèn phiêu lưu ký" đó Dzung Dế Mèn!

    Cuối cùng là Kh. đề nghị chuyện này nha: Trong Đặc san của Nhóm 74 mình lần này, mình nên có thêm một tiết mục "DU LỊCH ĐÓ ĐÂY" và Dzung, O Rệu với Cái Oanh sẽ góp mặt trong tiết mục này, cũng như các bạn bên họ nội cũng vậy. Mỗi bạn sẽ chọn một bài viết tâm đắc nhất của mình cho tiết mục ấy. Các bạn có đồng ý không?

    Bây giờ Kh. đi chấm hình đẹp nhất để xin Dzung đây...
    Thầy Chi có nói hình đẹp để làm thiệp... và em cũng xin "ăn theo" với thầy nữa ạ! Cám ơn thầy nói dùm em nha.

    Kh.

    ReplyDelete
  2. Mấy ngày trước đây "Bước chân lãng du: Faroe Islands - Phần 2" với 33 tấm hình bắt mắt kể cả bản đồ chỉ đường du khảo cùng với các đoạn phụ đề thuật sự linh hoạt đã làm tôi không thể không đọc và xem một mạch từ hải cảng Runavick tới cụm hoa vàng mới nở mỗi đô Hè về trên những cánh đồng xanh mướt được cả ngàn con cừu "cắt" cỏ. Hôm qua, lần thứ hai theo bước lãng du của 3 phó nhòm đam mê nhiếp ảnh nghệ thuật, tôi phải dừng chân liên tục để ghi chú nhiều thông tin cần thiết vì tôi muốn "Bàn Ra Tán Vào" và "Lan Man Bên Lề" về các Nét Đẹp của Tạo Hoá và Con Người ở Faroe Islands (F. I.) mà Dzung Tran đã cố gắng hết mình để giới thiệu với thầy cô và bạn đồng tràng. Tôi rất cảm phục nỗ lực của Dzung nhưng cũng rất tiếc không được nghe chim biển gọi đàn trong tiếng sóng vỗ vào chân ghềnh đá và giữa tiếng gió hú trên những đỉnh cao (xem thêm hình ơ Phần 1). Smartphone đâu?
    A/. Bàn Ra Tán Vào.
    1. NÉT ĐẸP HÀI HÒA. (h. #6, 7, 8, 9, 10, 11, 21, 23) ở làng Trollanes, Júsar, Kunoy và Mikladatur.
    <<<Theo Google và en.wikipedia, F.I. là quần đảo tự trị thuộc Vương Quốc Đan Mạch trừ lĩnh vực Quốc Phòng, Ngoại Giao và Tiền tệ (không phải Tài Chính). Tiếng Faroe là ngôn ngữ chính ở học đường từ Mẫu Giáo đến Đại Học. Tiếng Đan Mạch là ngôn ngữ phụ. Sắc tốc Faroe gồm nhiều huyết thống. Tỉ số thất nghiệp hiện thời thấp nhất Âu Châu. Chất lượng cơ sở hạ tầng không thua các nước tiền tiến. Vì tự trị nên nhà nước và dân Falroe tự lo xây cất công ốc, đường xá và các hầm giao thông ngầm dưới đáy biển Đan Mạch có tài trợ một phần. Dzung cho biết họ sắp khởi công xây thêm 1 hầm ngầm dài 11km. Do đo, tôi suy ra mức sống ở F. I. chắc cao như ở Đan Mạch. Ấy vậy mà trong hình Dzung chụp ở 4 làng, tôi không thấy nhà cao nghễu nghện hay biệt phủ hoành tráng kiểu "trọc phú" "tham quan".
    2. NÉT ĐẸP TRỜI CHO (h. #11, 20, 25 và trong nhiều tấm giới thiệu các Nét Đẹp khác)
    <<< Theo tôi, nếu quan và dân vẫn chung sức bảo tồn môi trường sinh hoạt như hiện nay thì họ, con cháu họ và khách lãng du sẽ còn được hưởng Ơn Trời dài lâu.
    3. NÉT ĐẸP CỨU RỖI (h. #22, 23, 24, 30, 31)
    <<< Tôi được nghe giải thích đạo Thiên Chúa là Đường Cứu Rỗi (Salvation Way) trong Tình Yêu Thương và Lòng Tha Thứ của Đức Chúa Trời. Tôi lười Đi Thờ lắm nhưng nếu được thăm một trong mấy nhà thờ này thì tôi sẽ cúi đầu đọc kinh "Lạy Cha" (..tha nợ chúng tôi như chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng tôi..) rồi quỳ xuống thảm có hát bài Thánh Ca "Lạy Mẹ Là Ngôi Sao Sáng" (soi lối cho con lúc vượt biển thế gian..).
    4. NÉT ĐẸP ĐÈN BIỂN (h. #4, 8, 9, 10, 16)
    <<< Đối với dân chài lưới xa bờ, đối với các thủy thủ viễn dương thì ngọn hải đăng không những là Đèn Cứu Nhân Độ Thế khi sóng to gió lớn, sươngmù dày đặc mà còn là một kiến trúc mến yêu của nhiều người Mỹ và người ở nhiều nước khác. VN cũng có hải đăng. Nhiều hay ít tôi không biết. Năm 2003, một PHHS đưa tôi đi xem ngọn Hải Đăng ở mũi Kê Gà gần Phan Thiết. Từ xa, ổng bảo HĐ coi như bị bỏ hoang nhưng sẽ sớm được phục chế vì COCC (con ông cháu cha) đã "mua" hết đất đai dọc hai bên đường tráng nhực đi lên trển.
    Còn tiếp vì dài giòng quá. BDChi

    ReplyDelete
  3. This comment has been removed by the author.

    ReplyDelete
  4. Tiếp theo Comments của Thầy Bùi Dương Chi (#2)

    5. NĐ THÓT BỤNG (h. #14, 16, 17, 18, 19)
    < h. #14. Chó chăn cừu mà râu tóc cũng dựng đứng thì ai mà không thót bụng.
    < h. #16. Té xuống thì phải giang tay giạng chân để trượt xuống chầm chậm rồi va vào đá tảng
    mà dừng lại. Co quắp hay ôm đầu thì sẽ lăn lông lốc, đập mình vào đá sẽ thấy Sơn Tinh, rớt
    xuống biển sâu sẽ thấy Thủy Tinh.
    < h. #17. Nghe thợ sửa mái nhà dột kiêm thày giáo tiếng Anh chỉ cách “đi” an toàn dù không
    mang giầy “hiking”: cột ba lô đồ nghề chặt vào lưng, ngồi như cưỡi ngựa không cương trên “gờ”
    núi, gò người xuống, hai tay nắm cỏ như bám bờm ngựa rồi kéo lui, hai chân đẩy tới. Đụng đá
    tảng thì bám chặt rồi nhích nhích đi lên. Khi trở về, nếu gờ dốc xuống quá thì gài số “de”.
    < h. #18. Nhát gan thì nhất bộ, nhất bái 4 phương Trời, 10 phương Phật.
    < h. #19. Xem h. #17 và nhớ tạm kiêng ăn thịt, nhất là thịt cửu.
    6. NĐ CỔ TÍCH. (h. #26, 27, 28, 29)
    < Tôi mà có dịp đến đây thì “hai núi cũng trèo, ba eo (biển) cũng lội” để đứng bên nàng Selkie
    rồi một tay ôm nàng, một tay bấm máy, rồi nhờ Xuân Lục sửa sao cho trông giống như thật, rồi
    đem đi khoe với mấy cụ hàng xóm ở Quận 3.
    < “Sừng sững giữa trời” << Có khi đại thi hào Nguyễn Du đã ngắm tượng Selkie nên mới biết tả
    chân (không phải cẳng) nàng Kiều là: “Dẩy dầy sẵn đúc một tòa thiên nhiên”.
    < Tôi tính trước sau cũng sẽ đi Copenhagen ngắm tượng “Nhân Ngư” nhưng nay hễ có hoàn
    cảnh là tôi trực chỉ Mikladalur để kể cho dân làng nghe nghe cổ tích “Thị Thị rụng bị bà”.
    Chuyện rằng Giời thấy bà cụ nhân từ đơn côi mới cho nàng Thị Thị xuống đỡ đần. Sát vách có
    anh đồ mải lo sôi Kinh nấu Sử nên cơm nước thất thường, rác rưởi ngập mắt cá chân. Thị Thị
    thương tình sang nấu nướng và quét dọn khi anh đồ ra Đình gõ đầu trẻ. Một bữa đồ về sớm, lén
    nhìn qua khe cửa thấy Thị Thị đang róm bếp, đồ bèn lách vào xé nát vỏ thị. Thế là thành vợ
    chồng. Bà cụ già than khó ngủ mà cứ giờ Tý, Canh ba, Thị Thị lại ngâm nga “anh chưa thi đỗ thì
    chưa động phòng”.
    7. NĐ NGHỆ SĨ. (h. #18, 19, 29). Mời các thầy cô, các CHS và các dâu rể TH BMT nhìn hình
    người mặc áo lạnh màu xanh nước biển Thái Bình Dương là đại dương nằm giữa bờ Đông quê
    nội và bờ Tây quê ngoại của tác giả “Bước chân lãng du: Falroe Islands - Phần 1 & 2” đấy.

    ReplyDelete
  5. Tiếp theo Comments của Thầy Bùi Dương Chi (#3)

    B. LAN MAN BÊN LỀ.
    Theo “en.wikipedia”, dân số F. I. khoảng 50.000, hầu hết theo Thiên Chúa giáo. Mới đây, đến
    tuổi lập gia đình nam trội hơn nữ khoảng 1.000 người nên các cộng đồng dân cư đã kén được
    300 phụ nữ Thái Lan và Phi Luật Tân sang làm dâu. Thống kê 2017 cho biết F. I. hiện có 66 tín
    đồ Phật giáo, đông nhất sau Thiên Chúa giáo.
    Theo Dzung Tran, cư dân Falroe vừa hiền hòa vừa hiếu khách nên tôi mơ ước có ngày Dzung sẽ
    hướng dẫn những ai -có tôi đi hàng đầu- muốn sang F. I. xin phép nhà nước tự trị cho lập “Vườn
    Thiền” để nơi đây có thêm NÉT ĐẸP GIẢI THOÁT (tôi được chỉ bảo rằng Đạo Phật là Đường
    Giải Thoát, Liberation Path, khỏi vòng Luân Hồi). Rất mong CHS THBMT đang Tu Học Bồ Tát
    Đạo sẽ mở tâm Bồ Đề vẽ kiểu để Phật tử ở F.I. làm 8 Đường Chánh Đạo nếu xin được giấy phép.

    BDChi

    ReplyDelete