Friday, January 31, 2014

Khuya Đợi Giao Thừa


Ảnh: Phạm Hiền


KHUYA ĐỢI GIAO THỪA


Pha trà đợi đón Giao Thừa
Nhớ nhà ... nhớ quá ngày xưa trở về
Trùng trùng xa biệt đất quê
Thèm nghe pháo nổ đam mê thưở nào
Tìm đâu nụ cúc cành đào
Mai vàng nhụy biếc dâng trao cho đời
Thả câu lục bát lên trời
Nhắn cây nêu gởi nghìn lời sắt son
Bên kia non nước, nước non
Rưng rưng nước mắt tưởng còn như xưa
Gỗ trầm hương khói về chưa
Còn ta đứng ngóng nắng mưa trông chờ
Đợi con đò của tuổi thơ
Áo quần xúng xính ước mơ ngọt ngào
Đợi hàng cau nhỏ vút cao
Tình ơi phu phụ ngõ rào ướm duyên
Đợi em môi má đào tiên
Ửng hồng rượu chuốc mắt viền yêu thương
Đợi nghe chim hót trong vườn
Bờ đê ngọn cỏ nắng vương cuối ngày
Hoàng hôn pha khói lam bay
Nghe như thôi đã mắt cay cạn dòng
… Có gì đâu phút mênh mông
Đêm Giao Thừa nỗi nhớ mong chạnh lòng


Như Thương
(Giao Thừa Xuân Giáp Ngọ 2014)

Mùa Xuân trong thơ cổ điển

Trong thế giới văn học nghệ thuật cổ điển Trung Hoa & Việt Nam, thi ca miêu tả, đề cập đến mùa xuân... rất sớm sủa và phong phú. Ngay từ thời Hán, Đường của Trung Quốc, cũng như thời Lý, Trần, Lê, Nguyễn... Ở nước ta, các văn, thi nhân đã gửi gấm những tâm tình riêng tư hoặc những nỗi vui - buồn chung của phận người, của cuộc đời thường... trên từng bước xuân về.
 
Gia Cát Khổng Minh từ đời Tam Quốc, thế kỷ thứ 2 sau Tây lịch, đã cảm hoài tha thiết trước hình ảnh một khóm mai gầy đơn độc bên dòng suối vắng, lạnh lùng đón xuân một mình, giữa tuyết giá tàn đông:

                           Nhất dạ bắc phong hàn
                           Vạn lý đông vân hậu.
                           Trường không tuyết loạn phiêu,
                           Cải tận giang san cựu.
                           Ngưởng diện quan thái hư,
                           Nghi thị ngọc long đấu.
                           Phân phân lân giác phi,
                           Khoảng khắc biến vũ trụ.
                           Kỵ lư quá tiểu kiều,
                           Độc thán mai hoa sấu. 
                                                        (Trích từ tập Lương Phủ ngâm của Gia Cát Lượng)

Tử Vi Lang dịch ra như sau:

                           Một đêm gió bấc lạnh,
                           Muôn dặm bộn mây dày.
                           Hoa tuyết tung tơi tả,
                           Non sông chợt đổi thay.
                           Ngửa mặt trông vũ trụ,
                           Tưởng rồng chọi trên mây.
                           Cả bầu trời trắng xóa
                           Tua tủa vảy rồng bay.
                           Cởi lừa qua cầu nhỏ,
                           Thương tiếc khóm mai gầy.


Vào thế kỷ thứ 8, đời nhà Đường, thi hào Lý Bạch, được người đương thời ca tụng là một đấng thi tiên, đã thông cảm sâu sắc tâm tình cô quạnh của những nàng chinh phụ, khi ngọn gió xuân ấm áp thổi về, làm lay động màn trướng lượt là chốn khuê phòng lạnh lẽo:

                            Yên thảo như bích ti,
                            Tần tang đê lục chi.
                            Đương quân hoài qui nhật,
                            Thị thiếp đoạn trường thì.
                            Xuân phong bất tương thức,
                             Hà sự nhập la vi?
                                                        (Xuân tứ)

Nguyễn Thủy Nam dịch ra như sau:

                            Ý xuân
                            Cỏ Yên xanh mượt màu tơ
                            Dâu Tần biêng biếc rậm bờ đường đê.
                            Khi chàng rộn rã tình quê,
                            Là lòng thiếp chợt bộn bề xôn xao...
                            Gió xuân kia lạ làm sao
                            Vì đâu thổi lộng trướng đào đêm đêm?

Đổ Phủ, một bậc thi thánh khác đời Đường, cùng thời với Lý Bạch, lại cảm xuân qua một mối sầu chung trong cảnh quốc phá gia vong của một thời loạn ly chinh chiến:

                            Quốc phá sơn hà tại,
                            Thành xuân thảo mộc thâm.
                            Cảm thời hoa tiễn lệ,
                            Hận biệt điểu kinh tâm.
                            Phong hỏa liên tam nguyệt,
                            Gia thư để vạn câm (kim).
                            Bạch đầu tao cánh đoản,
                            Hồn dục bất thăng trâm.
                                                       (Xuân vọng)

Nguyễn Thủy Nam dịch như sau:

                            Ngắm mùa xuân
                            Loạn ly sông núi còn kia,
                            Thành xuân cây cỏ bốn bề xanh um.
                            Cảm thời hoa cũng rưng rưng,
                            Biệt ly xui khiến não nùng tiếng chim.
                            Ba trăng giặc giã triền miên,
                            Thư nhà quý tựa muôn nghìn ngọc  châu.
                            Ngu ngơ tóc ngắn bạc đầu,
                            Trâm cài rơi xuống để sầu lòng ai?



Nhà thơ trẻ Trương Nhược Hư say cảm xuân tình với cảnh sắc triền miên trời - trăng - mây - nước rộn ràng; với hoa - lá xôn xao; với nguồn thơ lai láng; với đậm đà nét bút thanh xuân... Cả một tâm hồn thơ tha thiết, xao xuyến cảm hoài với trời xuân, sông xuân, trăng xuân và hoa xuân, như một nét đẹp huyền hoặc, bất tuyệt của trời đất, của thiên nhiên, hoà nhập với lòng người phơi phới trào dâng giữa lúc xuân về:

                            Xuân giang triều thủy liên hải bình
                            Hải thượng minh nguyệt cộng triều sinh.
                            Diễm diễm tùy ba thiên vạn lý,
                            Hà xứ không gian vô nguyệt minh?
                            Giang  lưu uyển chuyển mãn phương diện,
                            Nguyệt chiếu hoa lâm giai như tiễn.
                            Không lý lưu sương bất giác phi,
                            Dinh thượng bạch sa khan bất kiến.
                            Giang thiên nhất sắc vô tiêm trần,
                            Hạo hạo không trung cô nguyệt luân,
                            Giang bạn hà nhân sơ kiến nguyệt?
                            Giang nguyệt hà niên sơ kiến nhân?
                            Nhân sinh đại đại vô cùng dĩ,
                            Giang nguyệt niên niên vọng tương tự.
                            Bất tri giang nguyệt chiếu hà nhân?
                            Đản kiến trường giang tống lưu thủy...
                                                        (Xuân giang hoa nguyệt dạ - trích đoạn)

Nguyễn Thủy Nam dịch ra như sau:

                            Đêm trăng và Hoa trên dòng sông xuân (trích đoạn)
                            Sông xuân nước chảy liền khơi,
                            Trăng nhô đầu sóng tơi bời triều lên.
                            Trăng soi vạn dặm triền miên,
                            Sông xuân ngời sóng lênh đênh ánh vàng.
                            Nước tuôn còn đẫm mùi hương,
                            Trăng hòa nước, ngát rừng thơm hoa đời.
                            Sương còn lãng đãng chơi vơi,
                            Lung linh bãi cát chân trời nơi đâu?
                            Sông  xuân trời - nước một màu,
                            Trăng treo vằng vặc giữa bầu không trung.
                            Bên sông ai đã ngắm trăng?
                            Trăng trôi nước chảy đã từng thấy ai?
                            Nhân sinh vô tận cảm hoài,
                            Năm năm trăng - nước miệt mài cùng nhau.
                            Biết chăng trăng nước giang đầu,
                            Chiếu soi ai đó, để sầu cho ai?
                            Sông dài cuộn cuộn nước trôi!...

Trở về với thi ca cổ điển Việt Nam, ngay từ thời Lý - Trần, cách đây gần một nghìn năm, những bài thơ xuân đầu tiên thường là danh tác của các thiền sư, vì vậy những bài thơ xuân thường phảng phất phong vị thiền như bài thơ “Cáo tật thị chúng”  của thiền sư Mãn Giác đời Lý sau đây:

                            Xuân khứ bách hoa lạc,
                            Xuân đáo bách hoa khai.
                            Sự trục nhãn tiền quá,
                            Lão tùng đầu thượng lai.
                            Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
                            Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
                            Ngô Tất Tố dịch ra nhu sau:
                            Xuân đi trăm hoa rụng,
                            Xuân đến trăm hoa cười.
                            Muôn việc trôi trước mắt,
                            Trên đầu già tới rồi!
                            Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết,
                            Đêm qua sân trước một cành mai...

Bài thơ được sáng tác lúc thiền sư ngọa bệnh, vậy mà hồn thơ cứ phơi phới dâng trào, nhà sư vẫn hân hoan thấy được cái chân như, cái Phật tính của đại chúng, bàng bạc giữa miền tâm thức, giữa thiên nhiên, giữa trời đất, qua hình ảnh một cành mai nở muộn màng, lẻ loi trước sân chùa, như một mầm sống thiêng liêng muôn đời bất diệt:

                            Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết,
                            Đêm qua sân trước một cành mai!



Các vua chúa đời Trần của nước ta cũng để lại nhiều bài thơ xuân, lời lẽ tươi đẹp, ý tứ thâm trầm, bất hủ... như những bài thơ xuân sau đây của Vua Trần Nhân Tông, sáng tác vào cuối thế kỷ 13:

                            Thụy khởi khải song phi,
                            Bất tri xuân dĩ quy.
                            Nhất song bạch hồ điệp,
                            Phách phách sấn hoa phi.

Nguyễn thủy Nam dịch như sau:

                            Sớm mở tung cửa sổ,
                            Đâu biết xuân đã về.
                            Tung tăng đôi bướm trắng,
                            Bay thẳng vào hoa kia!

Đó là tâm tình sôi nổi của một vị quân vương, đang tuổi xuân xanh mà tình xuân đang dâng lên chan chứa, khác hẳn với cái nhìn trầm tư sâu lắng, cái nhìn của một bậc chân tu, đạo cao đức dày, một khi nhà vua đã đứng tuổi, bén say mùi đạo, thấy lòng thanh thản, an nhiên tự tại trong lúc xuân về... Lúc bấy giờ nhà vua đã giã từ cung vàng điện ngọc, trở thành một vị đầu đà trên núi Yên Tử, là Điều Ngự Giác Hoàng, Tổ thứ nhất của Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam:

                            Chim hót dề dà, liễu tả tơi
                            Thềm hoa mây phủ, bóng nhà dài.
                            Khách vào không hỏi gì nhân sự
                            Tưạ bức lan can, chỉ ngắm trời.
                                                   (Xuân Cảnh - Vô Danh dịch)

Hay:

                            Địa tịch đài du cổ,
                            Thời lai xuân vị thâm.
                            Vân sơn tương viễn cận,
                            Hoa kính bán tình âm.
                            Vạn sự thủy lưu thủy,
                            Bách niên tâm vấn tâm.
                            Ỷ lan hoàng ngọc địch,
                            Minh nguyệt mãn hung khâm.
                                         (Đăng Bảo Đài Sơn - Trần Nhân Tông)

Nguyễn Thủy Nam dịch như sau:

                            Lên núi Bảo Đài
                            Đất xa Đài cổ kính,
                            Ngày tháng mới vào xuân.
                            Gần xa tuôn mây núi,
                            Đường hoa nửa bóng lồng.
                            Muôn việc nước trôi nước,
                            Trăm năm lòng nhủ lòng.
                            Bên hiên thổi sáo ngọc,
                            Đầy người ánh trăng trong.

Cũng bài thơ dó, Nguyễn Thủy Nam dịch ra thơ thất ngôn đường luật như sau:

                            Bảo Tháp nằm im khuất cõi xa,
                            Sơ xuân năm tháng mới la đà.
                            Gần xa mờ mịt tuôn mây núi,
                            Bóng rợp che vừa nửa ngõ hoa.
                            Muôn việc rồi như dòng nước chảy,
                            Trăm năm ta tự nhủ lòng ta.
                            Bên hiên sáo ngọc đưa ngang mặt,
                            Vạt áo lung linh ánh nguyệt tà.



Nhà thơ Nguyễn Trãi, vào thế kỷ 15, đang lúc xuân sang, nhìn  cây cỏ đâm cành non lá mới, xanh mướt, êm đềm... khiến lòng người thêm nhàn nhã thảnh thơi, như muốn hòa nhập vào cảnh sắc của vũ trụ, của thiên nhiên, giữa lúc xuân mới về còn lãng đãng khói sương:

                            Độ đầu xuân thảo lục như yên,
                            Xuân vũ thiêm lai thủy phách thiên.
                            Dã kính hoang lương, hành khách thiểu,
                            Cô chu trấn nhật các sa miên.
                                         (Trại đầu xuân độ)

Kiều Văn dịch ra như sau:

                            Bến xuân đầu trại
                            Cỏ xuân đầu bến xanh như khói,
                            Chan chứa mưa xuân nước vỗ trời.
                            Đường nội hoang vu, hành khách ít,
                            Thuyền kề bãi cát, suốt ngày ngơi.

Ngô Chi Lan, nhà thơ nữ Việt Nam vào cuối thế kỷ 15 đã vẽ lại cảnh tượng một mùa xuân Việt Nam thuở thái bình thịnh trị (dưới triều vua Lê Thánh Tông), đầy màu sắc huy hoàng ấm áp, cỏ cây, hoa bướm lộng lãy của vườn xuân rực nắng, ngát hương:

                            Khí trời ấm áp đượm hơi dương,
                            Thấp thoáng lâu đài vẻ ác vàng.
                            Rèm liễu líu lo oanh hót gió,
                            Bụi hoa phất phới bướm châm hương.

Trong Truyện Kiều, ta cũng thấy nhiều nơi cũng chan hoà, lai láng thơ xuân... Thi hào Nguyễn Du thường diễn tả cảnh sắc mùa xuân êm đềm, trong sáng, trẻ trung và, tuơi mát của một thiên nhiên rộn rã, nghe ra phơi phới xuân tình:

                            Cỏ non xanh tận chân trời,
                            Cành lê trắng điểm một vài bông hoa...

Hay:

                            Trước sau nào thấy bóng người,
                            Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.

Và:

                            Gần xa nô nức yến oanh,
                            Chị em sắm sửa bộ hành du xuân.
                            Dập dìu tài tử giai nhân,
                            Ngựa xe như nước, áo quần như nêm...

Để khép lại một khoảng trời xuân trong thơ cổ điển, chúng ta có thể mượn nét bút của nữ sĩ tài hoa Hồ Xuân Hương qua bài thơ Đài Khán Xuân, sáng tác có lẽ vào đầu thế kỷ 19, để cùng thưởng thức cảnh sắc êm đềm, thơ mộng, trong sáng của xuân xưa, ngày nào trên quê hương miền Bắc. Nơi mà những khách thơ nhàn nhã du xuân, mà lắm khi, tâm tình vẫn còn nặng một chút cảm hoài trước cảnh tình nghìn năm kim cổ và trước những biến thiên lịch sử đoạn trường;

                            Êm ả chiều xuân đến Khán Đài,
                            Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai.
                            Ba hồi chiêu mộ chuông gầm sóng,
                            Một vũng tang thương nước lộn trời....

Tâm tình đó hình như cũng đồng điệu với Bà Huyện Thanh Quan, người đã nặng lòng với non nước, đã cảm hoài trước lẽ vô thường của tạo vật, và trước biết bao tang thương dâu biển, vật đổi sao dời của cảnh sắc, của thời gian:

                            Tạo hóa gây chi cuộc hí trường,
                            Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương.
                            Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
                            Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
                            Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
                            Nước còn cau mặt với tang thương.
                            Nghìn năm gương cũ soi kim cổ,
                            Cảnh đấy, người đây luống đoạn trường!
                                                         (Thăng Long thành hoài cổ)

Nguyễn Thủy Nam, South Australia -  xuân 2013