Mùa
xuân vừa về trên xứ Kangaroo, vùng miệt dưới Nam bán cầu mát mẻ. Hầu như trên
tất cả các tiểu bang Úc Đại Lợi, khí hậu trở nên ấm áp, bầu trời trong xanh,
mây trắng nhẹ nhàng bay lửng thửng, cây cối đâm chồi nở lộc, và con người dễ
hòa mình vào cảnh vật thiên nhiên, khắp nơi giữa chốn thị thành hay nông thôn
xa vắng, người người vui vẻ, chim chóc ríu rít chuyền cành, chuyện trò trên
những nhánh cây, hay đuổi bắt ngoài sân
cỏ...
Vườn nhà tôi ở Sydney, trổ hoa xinh xắn lạ
thường. Bao bọc hàng rào là những gốc hoa đào nở rộ đủ màu, nào đỏ, trắng, hồng,
nào hai, ba màu lẫn lộn..., dưới gốc là các cây nhỏ như hoa mười giờ vàng,
tím, xanh nhạt bò quanh như trải thảm..., trong lúc đó những gốc hồng cũng đâm
thêm nhánh, nụ hồng cũng bắt đầu thấy rõ dễ thương.
Nói đến hoa người ta thường nghĩ ngay
đến những đóa hoa có màu sắc, có hương thơm khoe mình trong nắng sớm, cống hiến
cho đời nhiều dụng ích như trang hoàng phòng khách, phòng thờ tự gia đình, là
quà tặng nhau trong những ngày lễ lượt, cúng kỵ, khoác lên cổ người con gái,
người chiến sĩ chiến thắng từ trận tuyến trở về, người thắng giải thể thao, phủ
trên áo quan người đã đền nợ nước.
Tôi thường dâng hương, dâng hoa để cúng Phật, ở nơi
khác là trang nghiêm thanh tịnh đạo tràng hay trong các lễ nghi tôn giáo, dâng
cúng pháp sư lúc đăng đàn..., hoa cũng được dùng khi thăm người bệnh, người mới
sanh, dùng trong lễ cưới, đám tiệc vui, hay trong tang lễ, trong ngày lễ Mẹ, lễ Cha...
Ngày xa xưa, lúc tôi còn học lớp một lớp hai trường làng cách đây khoảng gần bảy mươi năm thì hoa còn được ép trong sách, trong vở học trò, trong thư gởi tình nhân. Hoa còn được làm nước hoa thơm cống hiến cho đời xử dụng.
Hoa cũng thường được nhân cách hóa là
“người con gái, biết nói biết cười” với nhan sắc kiều diễm, dáng điệu thướt
tha, biết làm duyên nhõng nhẽo gợi tình, làm say mê bao chàng trai “dại gái”,
bao ông già “mất nết” phải khổ sở đảo điên, bỏ học bỏ hành, bỏ nhà bỏ cửa, bỏ
vợ bỏ con, bỏ cả công danh sự nghiệp mang tiếng xấu xa trong cuộc đời.
Trong văn chương, lịch sử, đã có nhiều “đóa
hoa đẹp” làm nghiêng nước nghiêng thành, như Tây Thi đã làm cho Ngô Phù Sai mất
nước, như Điêu Thuyền, Bao Tự ...của Trung Hoa. Việt Nam ta, một Huyền Trân công chúa trẻ đẹp đời Trần đã làm
cho Chế Mân mê mệt, mong muốn được cưới
làm vợ nên phải thuận đổi 2 châu Ô Lý của nước Chiêm Thành để sau trở
thành đất Thuận Hóa (Huế) mở rộng bờ cõi miền Trung nước ta thời bấy giờ.
Trong truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn
Du, Thúy Kiều với “ làn thu thủy nét xuân sơn ” và ngón đàn tuyệt hảo đã bao
phen làm cho chàng trai Kim Trọng thất bất xang ban, dở dang sự nghiệp, Thúc
Sinh dối vợ sống chung Thúy Kiều bị Hoạn Thư ghen tuông hành hạ, Từ Hải được tiếng
anh hùng cũng bị Thúy Kiều nỉ non nên đầu hàng Hồ Tôn Hiến trở về quy phục
triều đình, vì vậy mà đã chết đứng vì uất khí...
Nói đến hoa thì sách vở báo chí, từ xưa đến nay đều thường làm đề tài trong những câu chuyện thật có, giả có, hư hư ảo ảo, mê ly hấp dẫn, nhất là trong những dịp xuân về, hạ đến, thu sang, đông đến, nhà văn, thi sĩ, nhạc sĩ tha hồ khai thác thị hiếu độc giả.
Người Á Đông như Việt Nam chúng ta, cha mẹ từ xưa đến nay thường hay lấy tên hoa để đặt tên cho con gái của mình như Hải Đường, Thủy Tiên, Ngọc Lan, Bạch Huệ, Ngọc Quỳnh, Mẫu Đơn, Hồng Nhung, Tỷ Muội, Hồng Đào v.v..., tên nào cũng hay, tên nào cũng đẹp và nhiều ý nghĩa.
Nhưng với người Phật tử có tu học, có quán chiếu duyên sanh:
“Các pháp do duyên sinh,
Cũng từ duyên mà diệt.
Đấng giác ngộ tuyệt vời,
Đã từng như vậy thuyết.”
thì hoa chỉ là pháp hữu vi do duyên sinh hội tụ thì
gọi là có, duyên sinh tan rã thì gọi là mất, nó là giả hợp biểu trưng đặc tính
vô thường, vô ngã, niết bàn theo tinh thần tam pháp ấn của giáo lý Phật đà.
“Nguyện sanh Cực Lạc cảnh Tây phương
Chín phẩm Hoa Sen là cha mẹ
Hoa nở thấy Phật chứng vô sinh,
Bồ tát bất thối là bạn hữu.”
Người Phật tử luôn quán chiếu Hoa Sen, loại
hoa vô nhiễm, gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn, với tâm nguyện cầu “Hoa nở
thấy Phật chứng vô sinh, Bồ tát bất thối là bạn hữu.”
Quách Thoại, một thanh niên rất trẻ, chỉ
chừng hơn 20 tuổi đời, lúc đi ngang qua một ngôi nhà, đứng yên ngoài hàng dậu,
thấy một luống hoa Thược Dược, anh ta bỗng giật mình tỉnh thức, không suy xét
thường tình, cho hoa là tạo thành bởi tứ
đại giả hợp sớm nở tối tàn, mà đã thực chứng được ý nghĩa nhiệm mầu cao cả của
vạn pháp mang sẵn tự tánh thanh tịnh ban sơ:
“Đứng yên ngoài hàng dậu
Em mỉm nụ nhiệm mầu,
Lặng nhìn em kinh ngạc,
Vừa thoáng nghe em hát,
Lời ca em thiên thâu,
Tôi sụp lạy cúi đầu”.
“Đứng yên ngoài hàng dậu
Em mỉm nụ nhiệm mầu,
Lặng nhìn em kinh ngạc,
Vừa thoáng nghe em hát,
Lời ca em thiên thâu,
Tôi sụp lạy cúi đầu”.
Vì sao người con trai mới trưởng thành, đã
bao lần đi ngang qua ngôi nhà đó, đã từng thấy hoa Thược Dược nở mà vẫn dững
dưng, thì lần này lại thấy được sự mầu nhiệm thanh tịnh, bất sanh bất tử của
hoa “ngọn lá nào, cánh hoa nào không thuyết Pháp Hoa kinh”; phải chăng khi con
người thực sự sống bằng chánh niệm thì chánh niệm là Phật soi sáng xa gần nên
mọi vật hiện hữu xung quanh ta dầu danh xưng vô thường cũng đều có Phật tánh
thường hằng, bản lai diện mục “chư pháp tùng bản lai, thường tự tịch diệt
tướng.”
Hoa được nói trong lời thuyết giảng của
Đấng Như Lai là hoa trời Mạn Đà La, hoa Ưu Đàm, hoa Linh Thoại là những loại
hoa quý hiếm ngàn năm chỉ thấy nở một lần, ẩn dụ thâm sâu tánh giác ngộ giải
thoát.
Trong Kinh điển, một số tên Kinh liễu nghĩa
đại thừa cũng có chữ HOA như PHÁP HOA, HOA NGHIÊM, HOA THỦ v.vv...
Tuy cùng một chữ HOA nhưng ý nghĩa của từng
chữ HOA trong các bộ Kinh ấy không hoàn
toàn giống nhau mặc dầu tựu trung đều đi đến cứu cánh Niết bàn diệu tâm.
Kinh Hoa Nghiêm, viết tắt của Đại Phương
Quảng Phật Hoa Nghiêm, là bộ Kinh đại thừa đã được Phật dạy lúc Ngài mới thành
đạo cho hàng Bồ tát thượng thừa trong 21 ngày bằng sự quán chiếu nhập định, và
các Bồ tát cũng “nghe” Kinh ấy bằng sự thanh tịnh thân tâm của mình, dĩ nhiên
không nghe có tiếng nói mà giữa Phật và Bồ tát chỉ im lặng mà thôi. Nội dung của
Kinh này đứng trên cảnh giới bất tư nghì giải thoát, tuyên dương công đức và
cảnh giới của chư Phật và xương minh nhơn hạnh xứng tánh bất tư nghì của chư
đại Bồ Tát nên mỗi lời mỗi câu trong Kinh này đều lấy toàn thể pháp giới tánh
làm lượng, nên cũng gọi là vô ngại pháp giới.
Hoa Nghiêm tiếng Phạn là Avatamsaka, có
nghĩa là đóa hoa tinh khiết đẹp nhất trần gian, tỏa hương khắp mười phương pháp
giới.Tư tưởng uyên áo của Kinh là trình bày vạn pháp do tâm sanh, tức tâm tức
Phật, chân lý trùng trùng duyên khởi, tương tức tương nhập, cái này có do cái
kia có, cái này không do cái kia không ...Tất cả tam thiên đại thiên thế giới
có thể nằm gọn trong hạt cải và hạt cải có thể thâu nhiếp tất cả vũ trụ vạn
pháp.
Hoa ở đây ẩn dụ sự tu hành mười ba la mật,
là nhân để nhập vào pháp giới, thành tựu mọi công hạnh của đạo Bồ Tát. Hoa này
có mười cánh, mỗi cánh là một ba la mật: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh
tấn, thiền định, trí tuệ, phương tiện, đại nguyện, đại lực, đại trí.
Bởi thế, nếu kinh Bát Nhã nói lên ý nghĩa
về chơn lý tánh không vô ngại thì kinh Hoa Nghiêm biểu trưng cho giáo lý đại
thừa về lý hữu hóa duyên sinh của “vạn pháp giai không, duyên sanh như huyễn.”
...
Kinh Pháp Hoa, viết tắt của Đại Thừa Diệu
Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm được Phật thuyết giảng đồng thời
với Kinh Niết Bàn trong tám năm cuối đời Ngài trước lúc nhập diệt, xác nhận mỗi
chúng sanh đều có Phật tánh, giữa Phật tánh của Phật và Phật tánh của chúng
sanh si mê lầm lạc, đều không sai khác.
Lúc thuyết Kinh Pháp Hoa tại Hội Linh Sơn
Ấn Độ, Phật cũng thuyết pháp lúc đầu trong im lặng, cầm đóa Hoa Sen đưa lên
giữa đại chúng, miệng mĩm cười hồi lâu, không ai hiểu Phật nói gì, chỉ riêng Ca
Diếp hiểu ý Phật, cũng mĩm cười, Phật ấn chứng nụ cười của Ca Diếp nên đã
truyền y bát cho Ca Diếp làm Sơ Tổ.
Chữ HOA ở đây là HOA SEN ẩn dụ cho Phật
tánh, cho tánh bình đẳng của vạn pháp. Đặc tính hoa quả đồng thời, hoa chưa nở,
gương Sen đã có, hoa rụng hết gương vẫn còn. Sen ở trong bùn vượt lên mặt nước
không vướng mùi bùn như chư Phật đều thành Phật từ trong Dục giới. Người Phật
tử chúng ta sinh trong đời ngũ trược ác thế, phiền não khổ đau nhưng quyết tâm
tu học, gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.Ví dụ Liên Hoa, đức Phật chỉ bày một
cách kín đáo về Phật tánh, về khả năng thành Phật của mọi người.Tất cả chúng
sanh không nên tự khinh mình ! Là chúng sanh, ai ai cũng đều sẵn có Tri kiến
Phật.
Trong Kinh Hoa Thủ, phẩm Phó Chúc thứ 35:
Đem hoa cúng Phật thì được đầy đủ phước
báu, hoặc nếu có thiện nam tín nữ nào phát tâm đại thừa, thì hoặc lúc Phật còn
tại thế hay đã diệt độ mà đem các thứ hương hoa, chuỗi anh lạc... cúng dường
Phật, do nhân duyên đó nên đầy đủ tám phước đức:
- Sắc thân đầy đủ.
- Tài vật đầy đủ.
- Quyến thuộc đầy đủ.
- Trì giới đầy đủ.
- Thiền định đầy đủ.
- Đa văn đầy đủ.
- Trí thức đầy đủ.
- Chỗ mong cầu đầy đủ.
Trong thi kệ nhật tụng của Thiền sư Nhất
Hạnh, Hoa thường được nhắc đến với những
công hạnh sâu sắc của nó.Hãy học hạnh Từ - Bi - Hỷ - Xã của Hoa. Hoa phải là
Tâm, Hoa mang tướng vô thường nhưng vĩnh cữu, Hoa sẽ tàn nhưng vẻ đẹp mùi hương
Hoa Đạo không biến mất trong tâm ta bao giờ.
Trong tư thế kiết già:
“Trong tư thế kiết già
Đóa hoa nhân phẩm nở,
Ưu Đàm hoa muôn thuở
Vẫn tỏa ngát hương thơm.”
“Trong tư thế kiết già
Đóa hoa nhân phẩm nở,
Ưu Đàm hoa muôn thuở
Vẫn tỏa ngát hương thơm.”
Chắp tay chào:
“Sen
búp xin tặng người
Một vị Phật tương lai.”
Một vị Phật tương lai.”
Khen ngợi Phật:
“Xinh
tốt như Hoa Sen
Rạng ngời như Bắc Đẩu.”
Rạng ngời như Bắc Đẩu.”
Hóa thân của Bồ Tát:
“Hoa là
vị Bồ Tát,
Làm tươi đẹp cuộc đời.”
Làm tươi đẹp cuộc đời.”
hay:
“Trang nghiêm Tịnh Độ
Nơi cõi Ta Bà,
Đất tâm thanh tịnh
Hiển lộ ngàn hoa.”
“Trang nghiêm Tịnh Độ
Nơi cõi Ta Bà,
Đất tâm thanh tịnh
Hiển lộ ngàn hoa.”
và:
“Đêm tụng kinh Pháp Hoa
Tiếng xao động tinh hà,
Địa cầu vừa tỉnh thức,
Lòng đất bổng đơm hoa.”
“Đêm tụng kinh Pháp Hoa
Tiếng xao động tinh hà,
Địa cầu vừa tỉnh thức,
Lòng đất bổng đơm hoa.”
và:
“Đêm tụng kinh Pháp Hoa
Bảo tháp hiện chói lòa,
Khắp trời Bồ Tát hiện,
Tay Phật trong tay ta.
......................................
......................................
“Đêm tụng kinh Pháp Hoa
Bảo tháp hiện chói lòa,
Khắp trời Bồ Tát hiện,
Tay Phật trong tay ta.
......................................
......................................
Duyên
may được làm người Phật tử, vui mừng được làm con của Đấng Như Lai, là Thầy của
Trời, Người và mọi loài chúng sanh, há chúng ta lại cứ mãi mãi sân si ngu dại,
bồng bềnh trôi nổi trong kiếp nhân sinh, thuận xuôi theo dòng nước đục sinh tử
luân hồi với nhiều cạm bẫy, để rồi lúc ngoảnh lại “nồi kê chưa chín” trên đầu
tóc bạc, má lõm, răng long, mắt mờ, tai điếc... mới bắt đầu tỉnh thức học đạo
Giác Ngộ, Giải Thoát thì nghiệp dĩ phù trần làm sao chuyển kịp!
Hãy
quán chiếu tự thân “Còn bao lâu nữa” như tiếng chuông, lời gọi của Phật để lập
nguyện quyết tâm tinh tấn tu học, giúp mình, giúp người, như Thắng Man phu nhân
vừa được gặp Phật đã cất lên ba lời nguyện lớn, hứa nguyện giáo hóa chúng sanh,
xả bỏ thân mạng vì sự tồn tại của Phật pháp.Long Nữ liễu ngộ diệu lý Pháp Hoa
mà phước trí vẹn toàn, Thiện Tài Đồng tử sau khi đã được học Đạo với Bồ Tát Đại
Trí Văn Thù Sư Lợi, tuân theo lời khuyến giáo của Ngài, đã lập chí chu du khắp
nơi không ngại đường sá xa xuôi hiểm trở, chướng ngại chập chùng, tham bái các
bậc minh sư để tiếp tục học Đạo.
Hoa Đời khoe sắc thắm
Hoa Đạo ngát hương thơm,
Linh Thoại ngàn năm nở
Sao ta mãi lửng lơ?
Hoa Đời khoe sắc thắm
Hoa Đạo ngát hương thơm,
Linh Thoại ngàn năm nở
Sao ta mãi lửng lơ?
Nguyên Mẫn Lê Viết Lâm
Thầy Cô Lâm viết bài này hay quá,
ReplyDeleteXin cám ơn và kính chúc sức khỏe anh chị,
Bài Thơ " Thảnh Thơi " cũng tuyệt vời anh chị Lâm à,
* Anh Chị làm thơ nữa đi cho tâm hồnthư giãn,
chìm trong mơ sẽ vui và bớt mọi ưu phiền...
PTMinh-Hưng