Nói đến mẹ con là nói đến mối tương quan đậm đà thắm thiết trong bổn
phận, tình cảm thiêng liêng của con người có đạo hiếu, có truyền thống văn hóa
dân tộc, ngàn trăm năm trước cũng như mãi mãi về sau vẫn không bao giờ thay
đổi.
Nhất là đối với phương
Đông trầm lặng, thích sống nội tâm, không thích bon chen, tranh đua, không màng
tranh biện hơn thua sai đúng, con người hướng thượng, thì ơn nghĩa sinh thành
dưỡng dục luôn luôn được xem trọng, đề cao.
... Biết được “tin vui”,
mẹ âm thầm bắt đầu lo lắng đủ điều, từ giữ gìn bảo trọng sức khoẻ, sắp đặt
chiếc áo, tấm quần cho trẻ sơ sinh, chiếc áo len ngăn lạnh, chiếc áo ngắn che
nóng, chiếc mền nhỏ nhắn, chiếc nôi xinh xinh, vài món đồ chơi ngộ nghĩnh...
suốt ngày đi vào đi ra, đi tới đi lui, lúc ngồi lúc nằm, lúc làm việc, lúc nghỉ
ngơi, lúc xem sách, lúc nguyện cầu... không lúc nào mẹ không nghĩ đến đứa con
sắp sinh. Mẹ cẩn thận giữ gìn từng bước đi, chậm rãi để khỏi té ngã, sợ ảnh
hưởng đến thai nhi, lựa chọn món ăn, thức uống, mẹ ăn là ăn cho con, mẹ nói là
nói giùm con, mẹ sống là vì con, rất mong khi con chào đời, con sẽ rất dễ
thương bụ bẫm giống mẹ, giống cha. Vì thế trên chiếc bàn nhỏ để cạnh đầu giường,
mẹ đã không quên thiết trí một hình ảnh đẹp nhất, thánh thiện nhất như hình một
em bé rất xinh xắn dễ thương, hoặc, là thần tượng tôn kính của mẹ, như hình mẹ
hiền Quan Âm với dáng dấp thanh cao, hiền dịu.
Rồi theo thời gian, cái
thai lớn dần, mẹ lại vui hơn nhưng cũng không kém phần lo lắng đủ điều. Thương
con, gắn liền mạng sống của mẹ, mẹ đã bắt đầu nghĩ đến vấn đề thai giáo để con
mẹ sau này lúc nào cũng là người con hiếu hạnh, xứng đáng là con ngoan của mẹ,
người công dân gương mẫu của dòng giống Lạc Việt.
Gần ngày sinh, mẹ trông
đợi, giữ bình tĩnh nhưng lòng không khỏi lo âu, nhất là đối với đứa con so đầu
lòng, mẹ chưa một lần có kinh nghiệm về mang nặng đẻ đau. Ngày đêm từng giờ từng
phút mẹ đều thành tâm nguyện cầu, xin ơn trên ban phước lành cho mẹ tròn con
vuông, gia đình nở rộ tiếng khóc, cười trong hạnh phúc đầm ấm một nhà hòa thuận
tin vui.
Bụng mẹ quặn đau, tiếng
khóc oe oe khi con ra đời, nước mắt mẹ âm thầm tuôn chảy mà lòng mẹ sung sướng
vô cùng. Mẹ bắt đầu có niềm vui lớn, gia đình có thêm một bông hoa chớm nở,
tiếng cười tiếng khóc của trẻ đều là hạnh phúc của mẹ. Mẹ báo tin cho bà con
nội ngoại, bạn bè xa gần biết, như thể mẹ vừa trúng số độc đắc không bằng.
Theo thời gian con lớn
lên, mẹ tập cho con từng bước đi, lúc đầu còn chập chững, từ từ vững chắc, con
đi đứng được, nói năng được, dầu chỉ vài ba tiếng bập bẹ, mẹ mừng lắm lắm.
Con lên năm, sáu tuổi,
mẹ đã nghĩ đến việc đưa con vào trường học hành văn chương, lễ nghĩa... “Con đi
trường học, mẹ đi trường đời.”
Con khôn lớn, mẹ vẫn
không rời con, luôn luôn gần gũi dạy dỗ, nhất là đối với con gái, mẹ lại càng
nhất mực giáo dưỡng căn dặn đủ điều, sợ sau này lúc về nhà chồng con mình bị
mang tiếng là cha mẹ thiếu dạy nên con hư hỏng.
Nhìn chung, mẹ dạy con nhiều lắm, chung quy cũng do tình thương của mẹ to lớn vô cùng, bao la như biển thái bình, bền bĩ như suối nguồn tuôn chảy không cạn.
Nhưng lời mẹ ân cần dạy
dỗ nhất đối với con vẫn là luôn luôn muốn con giỏi giang đức hạnh, qua tục ngữ
“Học Ăn, Học Nói, Học Gói, Học Mở”... theo truyền thống tập quán của dân tộc
Việt.
Ăn, danh từ quen thuộc,
tưởng chừng nói ra là hiểu được, không dè cũng khá phức tạp. Sợ con theo tập khí
tham ăn, ăn không kể giờ giấc, nơi chốn, ăn quên nhường người trên kẻ dưới, gặp
gì ăn nấy, mẹ dạy con “ăn nhắm nồi, ngồi nhắm hướng”, ham ngon miệng không cần
bổ dưỡng, tranh ăn không biết xấu hổ thẹn thùng, mẹ dạy “miếng ăn là miếng tồi
tàn...”, “Ăn để sống, không phải sống để ăn”. Rồi khi thì đóng vai vị thầy
thuốc, mẹ dạy con chỉ ăn những thức ăn có khả năng nuôi dưỡng thân thể và bảo
trì sức khoẻ, khi lại là vị thầy dạy luân lý đạo đức mẹ nhắc nhở con trước khi
ăn hãy tự hỏi thức ăn này từ đâu tới, có phải là tặng phẩm của đất trời cộng
với bao công phu lao tác và phải biết rằng thức ăn của ta có thể tạo ra bằng sự
đau khổ của những loài hữu tình và vô tình khác.
“Hai tay nâng bát cơm đầy,
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần”.
Từ đó, mẹ dạy con: “Ăn trái nhớ kẻ trồng cây”, “Uống nước nhớ nguồn”,
“Ăn cây nào rào cây ấy”.
Ngoài những
thức ăn nuôi sống cơ thể, con cũng cần những thức ăn cho tinh thần. Mẹ lưu ý con
loại bỏ những sách báo, phim ảnh... đồi trụy, bạo động, tránh xa những nơi
giải trí vô bổ, sa đọa. Những món ăn tinh thần phải là những thứ làm cho tâm con
thoải mái, trí tuệ con ngày một mở mang.
Nói cũng vậy, tuổi ấu
thơ mẹ dạy con tập đánh vần để con nói đúng mặt chữ vần trắc, vần bằng đã là
khó, đừng cà lâm, ngọng nghịu sai dấu chính tả đã là khó, mà lần lượt tập cho
con nói có câu, câu ngắn, câu dài không sai văn phạm lại càng khó hơn.Càng lớn,
mẹ dạy thêm cho con về công dụng của lời nói, về việc dùng ngữ ngôn lúc giao
tiếp với mọi người, về tác dụng của nói
năng và im lặng “lời nói là bạc, im lặng là vàng”, khi nào xử dụng ái ngữ (lời
nói yêu thương) để xây dựng tình thân ruột thịt gia đình, bạn bè, lân lý “lời
nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”, hoặc muốn có tuệ
giác, an lạc thì lời nói phải ngay thẳng, đúng đắn và thành thật, nên nói lúc
nào và nói với đối tượng nào.
Ngạn ngữ Pháp có câu
“Hãy uốn lưỡi bảy lần trước khi nói” nhằm nhắc nhở, trước khi nói hãy suy nghĩ
cho kỹ, vì lời nói có thể đem vui hay buồn, đau khổ hay hạnh phúc, tự tại hay
khiếp sợ đối với kẻ khác... Ông bà ta có câu nói nhiều, nói nhanh thì hay trật
là thế đó.Người ăn không ngồi rồi thường là người hay ngồi lê đôi mách, ăn nói
không chủ đích, trở thành con người mất tư cách bị mọi người khinh rẻ. Trái lại
khi cần dùng lời nói để giáo dục, khuyên lơn, bênh vực lẽ phải thì dầu có gặp
phiền toái cho mình mà thực hiện được đạo nghĩa, chân lý thì vẫn mạnh dạn cương
quyết không từ nan. Nói cũng là lời ban lệnh, như lệnh tiến quân của người chỉ
huy giữa trận tiền, pháp lệnh của quan tòa giữa tòa án, hậu quả lời nói rất
quan trọng, liên hệ đến tự do và mạng sống con người, phải hết sức cẩn trọng,
sai một ly, đi một dặm, làm máu đổ, đầu rơi, khổ đau biết bao cho nhiều người liên
hệ.
Tại nhà trường thầy giáo
dùng lời nói để giảng dạy học trò nên người hữu dụng, tại Phật đường, Thánh
đường, lời thuyết giảng của Chư Tăng Ni và Linh mục với nghĩa lý lúc thì thực
dụng, lúc thì triết học cao siêu, đã giúp ích rất nhiều cho con người phàm phu
trần tục mau chuyển mê thành giác, sớm được phép lành mầu nhiệm, được an vui
hạnh phúc.
Con sắp trưởng thành, mẹ
dạy con trai phải mạnh dạn, lanh lợi, tự tin, không ganh tỵ, ích kỷ nhỏ nhen,
xông pha vì đời, để lại tiếng thơm muôn thuở, con gái phải nết na, đảm đang,
công dung ngôn hạnh, như :
“Công là đủ mùi xôi thức bánh,
Nhiệm nhặt thay đường chỉ mũi kim.
Dung là nét mặt ngọc trang nghiêm,
Không tha thướt nói cười lơi lả”,
(Gia huấn
ca Nguyễn Trãi)
ngôn là lời nói khiêm tốn, hiền hòa, dễ thương :
“Chim khôn hót tiếng rảnh rang,
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe”,
và hạnh là nét đẹp bên trong, là nết na, hương thơm của người con gái
đức hạnh có thể lan tỏa khắp mọi nơi, gây được cảm tình tốt đẹp và sự thân
thiện quý mến, kính trọng của người khác.
Khi con vào đời, mẹ còn
dạy con cách giao tiếp với nhân quần xã hội “tam nhơn đồng hành, tất hữu ngã
sư”, hoặc chọn bạn mà chơi, “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”, học hành ở
trường, học khôn qua bạn, học mãi khôn ngưng, và đừng cống cao ngã mạn khinh
người, nịnh trên nạt dưới, giữ tư cách của con người có học, có hành, có nhân
cách. Noi gương sáng của người con trong “nhị thập tứ hiếu”, của ông Carnot, khi
đang làm thủ tướng nước Pháp trở về thăm trường cũ, thầy cũ vẫn luôn luôn xưng
tụng trước mọi người về công ơn giáo dưỡng lớn lao của thầy, một mực kính yêu
ghi nhớ ơn thầy mãi mãi với tâm thành đền đáp.
.......
Tình thương của mẹ đối
với con, tình con đối với mẹ không dựa trên nguyên tắc bổn phận, luật pháp xã
hội quốc gia ban hành, mà là mẹ thì thương con, là con thì thương mẹ, tình cảm
rất tự nhiên cao quý, thiêng liêng bền bĩ, không lấy tiền mua được, không dùng
sức mạnh khuất phục được, và cũng không có bút mực nào diễn tả hết được.
Nguyên Mẫn Lê
Viết Lâm
No comments:
Post a Comment